Bản án 99/2020/HSST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q, TỈNH Q

BẢN ÁN 99/2020/HSST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Q mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 105/2020/HSST ngày 12 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96 /2020/QĐXXST - HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: BÙI VĂN D (không có tên gọi khác); Sinh ngày 23 tháng 6 năm 1992. Tại Q, Q; Nơi cư trú: Thôn 11, xã Hiệp Hòa, thị xã Q, tỉnh Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Bùi Văn V, sinh năm 1960; Con bà Dương Thị B, sinh năm 1962; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Chưa.

Nhân thân: Ngày 06/8/2009 bị Tòa án nhân dân thị xã Q xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Ngày 02/9/2012 chấp hành xong hình phạt.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 08/9/2020, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Q. Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến:

1. Anh Vũ Văn V, sinh năm 1978.

Nơi cư trú: Thôn 2, xã S, thị xã Q - Q. Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Song H, sinh năm 1976.

Nơi cư trú: Thôn 6, xã S, thị xã Q - Q. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 16 giờ 30 phút, ngày 08/9/2020, tại thôn 8, xã S, thị xã Q, tỉnh Q, Công an thị xã Q phát hiện bắt quả tàng Bùi Văn D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong túi quần phía sau, bên trái D đang mặc 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa 01 túi nilon màu trắng chứa chất tinh thể màu trắng dạng cục, nghi là ma túy và 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, biển kiểm soát 34 L8 - 5999. Công an đã tiến hành niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại Cơ quan điều tra, D khai nhận: D nghiện ma túy từ tháng 5/2020, khoảng 16 giờ 00 phút ngày 08/9/2020, D mua ma túy của 01 người đàn ông tại thành phố U, tỉnh Q với số tiền 500.000 đồng với mục đích để sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, D điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, biển kiểm soát 34 L8 - 5999 đi đến đoạn đường thuộc thôn 8, xã S, thị xã Q thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Q đã tiến hành xác minh, xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki, biển kiểm soát 34 L8 - 5999 là của ông Vũ Văn Chiến, ông Chiến không biết việc Bùi Văn D dùng xe đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Q đã trả lại chiếc xe nêu trên cho ông Chiến.

Tại bản kết luận giám định số 1286 ngày 12/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q đã kết luận: Mẫu vật thu giữ của Bùi Văn D gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; tổng khối lượng 0,249 gam.

(Methamphetamine là chất ma túy có số thứ tự 323 thuộc danh mục 1 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định danh mục các chất ma túy và tiền chất).

Quá trình điều tra bị cáo Bùi Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.

Bản cáo trạng số 106/CT-VKSQY, ngày 10 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, tỉnh Q truy tố bị cáo Bùi Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm luận tội như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Bùi Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn D từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/9/2020.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 4 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- 01 (một) phong bì niêm phong số 1286/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, bên trong có chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành nên đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo nghề nghiệp và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Tại phần tranh luận, bị cáo Bùi Văn D không tranh luận gì với nội dung bản luận tội và thừa nhận việc truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan sai. Bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, với lời khai của những người chứng kiến anh Vũ Văn V và anh Nguyễn Song H, với vật chứng bị thu giữ, biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an thị xã Q lập hồi 16 giờ 50 phút ngày 08/9/2020, biên bản niêm phong vật chứng lập hồi 16 giờ 35 phút ngày 08/9/2020, kết luận giám định sô 1286/KLGĐ ngày 12/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên toà. Hội đồng xét xử đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 16 giờ 30 phút, ngày 08/9/2020, trên đoạn đường liên khu thuộc thôn 8, xã S, thị xã Q, tỉnh Q, Bùi Văn D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,249 gam (không phẩy hai bốn chín gam) ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Công an thị xã Q bắt quả tang.

[3] Từ những chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận hành vi của Bùi Văn D đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q đã quy kết đối với bị cáo D là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c)..., Methamphetamine,...có khối lượng từ 0,1gam đến 05 gam...” Bị cáo Bùi Văn D là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ ma túy là trái pháp luật. Nhưng vì thỏa mãn cơn nghiện của bản thân nên bị cáo đã bất chấp pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quy định của pháp luật về kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma túy, hành vi của bị cáo cũng là nguồn gốc phát sinh các tệ nạn xã hội, gây mất an ninh trật tự xã hội, tiếp tay cho các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy và là nguyên nhân gia tăng các loại tội phạm khác. Bản thân bị cáo đã từng phải chấp hành hình phạt tù về hành vi cướp tài sản, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên, cần thiết cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

- Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể: Ngày 06/8/2009 bị Tòa án nhân dân thị xã Q xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Ngày 02/9/2012 chấp hành xong hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo nghề nghiệp không ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng. Nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng:

- 01 (một) phong bì niêm phong số 1286/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, bên trong có chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định là chất Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Liên quan trong vụ án có đối tượng đã bán ma túy cho Bùi Văn D. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ nên không đề cập xử lý.

[8] Về án phí:

Buộc bị cáo Bùi Văn D phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Bùi Văn D 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/9/2020.

2. Về vật chứng:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 4 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong số 1286/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, bên trong có chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định.

(Tình trạng vật chứng trên thể hiện trong Biên bản giao nhận vật chứng lập vào hồi 09 giờ 35 phút, ngày 17/11/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Q).

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo Bùi Văn D phải nộp 200.000 đ (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 99/2020/HSST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:99/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Trị - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về