Bản án 99/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 99/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 14 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:  300/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2019, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 339/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 24 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng D, sinh năm 1988;

Đa chỉ: ấp T, xã B, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1979;

Đa chỉ: ấp T, xã B, huyện M, tỉnh Bến Tre, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để xét xử nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Nguyễn Thị Hồng D trình bày:

Qua tìm hiểu, chị D và anh B tự nguyện kết hôn vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện M.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chị sống hạnh phúc không bao lâu thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, do anh B hay đánh đập và dùng lời lẽ thô tục xúc phạm nhân cách chị nên vợ chồng ly thân từ tháng 4 năm 2019 đến nay không hàn gắn được.

Vợ chồng chị có một con chung tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 11 tháng 12 năm 2015 hiện đang sống chung với anh B.

Tài sản chung, nợ chung không có.

Do vợ chồng sống không có hạnh phúc nên chị D yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn với anh B, chị không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng.

Về con chung: Chị D đồng ý để anh B trực tiếp nuôi con, chị D tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Mặc dù vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm nhưng tại Bản tự khai ngày 08 tháng 8 năm 2019, bị đơn Nguyễn Văn B nêu ý kiến không đồng ý ly hôn với chị D và hai bên tự thỏa thuận về tài sản chung.

Phát biểu kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam thấy rằng Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách của những người tham gia tố tụng, không vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử; những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

Về nội dung, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng D.

Về con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của chị D về việc để anh B trực tiếp nuôi con, chị D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không có yêu cầu giái quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Hồng D và nội dung tranh chấp cần phải giải quyết, Tòa án xác định đây là vụ án Hôn nhân và Gia đình về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại các điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân.

Theo xác nhận đề ngày 26 tháng 6 năm 2019 của Công an xã B, huyện M thì bị đơn Nguyễn Văn B hiện đang đăng ký thường trú và cư trú tại ấp T, xã B, huyện M nên căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam theo trình tự sơ thẩm.

Xét thấy bị đơn Nguyễn Văn B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để xét xử nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn Nguyễn Văn B.

[2] Về nội dung giải quyết:

Xem xét, giải quyết yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng D, Hội đồng xét xử xét thấy:

Trên cơ sở quen biết, tìm hiểu nhau trước, chị Nguyễn Thị Hồng D và anh Nguyễn Văn B tự nguyện kết hôn năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện M nên hôn nhân của chị D và anh B là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận.

Sau khi kết hôn, chị D và anh B sống hạnh phúc một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do anh B thường xuyên đánh đập và có lời lẽ xúc phạm nhân phẩm chị D nên vợ chồng ly thân từ tháng 4 năm 2019 đến nay không hàn gắn được. Chứng cứ thể hiện tình tiết này là Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 21/QĐ-XPHC, ngày 11 tháng 7 năm 2019 của Trưởng Công an xã B đối với anh Nguyễn Văn B về hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình là chị D và Biên bản xác minh ngày 13 tháng 9 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam đối với Trưởng ấp T, xã B. Điều này cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị D và anh B đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D.

Các đương sự không có yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng nên không xem xét.

Về con chung: Ghi nhận sự tự nguyên của chị Nguyễn Thị D về việc để anh Nguyễn Văn B trực tiếp nuôi con, chị D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng D phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 đồng và án phí về việc cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng.

Xét thấy quan điểm và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ các điều 24 và 26 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng D. Chị Nguyễn Thị Hồng D được ly hôn anh Nguyễn Văn B.

Các đương sự không có yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng.

2. Về con chung: Anh Nguyễn Văn B được quyền trực tiếp nuôi con tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 11 tháng 12 năm 2015 hiện đang sống chung với anh B.

Chị Nguyễn Thị Hồng D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000(Một triệu) đồng. Thời gian cấp dưỡng từ tháng 10 năm 2019 cho đến khi con tròn mười tám tuổi.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình và các luật khác có liên quan. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình, yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí:

Chị Nguyễn Thị Hồng D phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0003754, ngày 19 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Nam là đủ.

Chị Nguyễn Thị Hồng D phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con là 300.000(Ba trăm nghìn) đồng sung vào công quỹ Nhà nước.

5. Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo Bản án; đương sự vắng mặt được quyền làm đơn kháng cáo Bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

6. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 99/2019/HNGĐ-ST ngày 14/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:99/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về