Bản án 99/2018/HNGĐ-ST ngày 18/10/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 99/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 209/2018/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 99/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lương Thị Na V, sinh năm 1987;

Nơi cư trú: Tổ dân phố Phú Thạnh, phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Trần Thanh H, sinh năm 1987;

Nơi cư trú: Tổ dân phố Phú Thọ 2, phường Ninh Diêm, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lương Thị Na V trình bày:

Bà và ông Trần Thanh H kết hôn năm 2016 và đã được Ủy ban nhân dân phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 37/2016 ngày 27/5/2016. Qua quá trình chung sống ông bà có với nhau một con chung là Trần Lương An N, sinh ngày 25/7/2017.

Cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên vợ chồng thường xuyên xảy ra kình cãi và mâu thuẫn không thể hòa giải được. Nhận thấy không thể tiếp tục chung sống với nhau nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Trần Thanh H.

Về con chung: Bà tự nguyện trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung là Trần Lương An N, sinh ngày 25/7/2017 đến tuổi trưởng thành. Không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa giải quyết về tài sản chung và xác định không có nợ chung với ông H.

Bị đơn ông Trần Thanh H đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng cố tình vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn đã chấp hành đúng và đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành nhưng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ, công khai đảm bảo quyền lợi hợp pháp. Căn cứ vào Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn; về con chung: Giao con chung là Trần Lương An N, sinh ngày 25/7/2017 cho bà Lương Thị Na V trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Trần Thanh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản chung và nợ chung: Bà V không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và xác định không có nợ chung với ông H nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 16/10/2018, nguyên đơn bà Lương Thị Na V có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn là ông Trần Thanh H đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn yêu cầu giải quyết ly hôn với bị đơn ông Trần Thanh H hiện cư trú tại: Tổ dân phố Phú Thọ 2, phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa nên quan hệ pháp luật trong vụ án được xác định là tranh chấp về quan hệ hôn nhân và gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lương Thị Na V và ông Trần Thanh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 37/2016 ngày 27/5/2016 vì vậy đây là hôn nhân hợp pháp.

Qua lời trình bày của bà Lương Thị Na V trong quá trình giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Hôn nhân phải trên cơ sở tự nguyện, giữa vợ chồng có sự yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, tuy nhiên quan hệ hôn nhân giữa bà V với ông H không hạnh phúc do thường xuyên phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng thường xuyên xảy ra kình cãi và mâu thuẫn vì tính tình hai bên không hợp nhau. Từ tháng 6/2016 đến nay, ông bà đã không còn chung sống với nhau. Mặc khác, trong suốt quá trình tố tụng, ông H cố tình vắng mặt không đến Tòa, điều này đủ cơ sở xác định ông H không còn quan tâm đến bà V. Như vậy, mục đích hôn nhân của bà V và ông H không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, yêu cầu xin ly hôn của bà V là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu.

[4] Về con chung: Theo tài liệu giấy khai sinh và lời khai của bà V thì có một con chung là Trần Lương An N, sinh ngày 25/7/2017, bà V có nguyện vọng nuôi con chung. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cũng như bảo đảm sự phát triển toàn diện và cuộc sống ổn định cho cháu Nhiên, hiện tại cháu Nhiên cũng đang sống với bà V vì vậy Hội đồng xét xử xét nên giao cháu Nhiên cho bà V tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Bà V không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà V không yêu cầu giải quyết tài sản chung và xác định không có nợ chung với ông H nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Bà Lương Thị Na V phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[7] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 278 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lương Thị Na V.

1.1. Về hôn nhân: Bà Lương Thị Na V được ly hôn ông Trần Thanh H.

1.2. Về con chung: Giao con chung là Trần Lương An N, sinh ngày 25/7/2017 cho bà Lương Thị Na V trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Trần Thanh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Trần Thanh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con chung khi cần thiết các đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con chung hoặc mức cấp dưỡng nuôi con chung.

2. Về án phí: Bà Lương Thị Na V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà V đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0003759 ngày 16 tháng 4 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Bà V đã nộp đủ án phí.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 99/2018/HNGĐ-ST ngày 18/10/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:99/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về