Bản án 986/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 986/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 08 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, xét xử sơ thẩm công khai, vụ án dân sự thụ lý số: 404/2019/TLST-HNGĐ, ngày 03 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 136/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 114/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2019.

Nguyên đơn: Bà Ngô Thị Kiều N, sinh năm 1981; địa chỉ:, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

Bị đơn: Ông Võ H, sinh năm 1974; địa chỉ: Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 26 tháng 3 năm 2019, bản tự khai, qua các lần làm việc tại Tòa án, nguyên đơn là bà Ngô Thị Kiều N trình bày: Bà Ngô Thị Kiều N với ông Võ H có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường M, quận G, Thành phố H, Giấy chứng nhận kết hôn số: 52, quyển số: 01/02 ngày 11 tháng 3 năm 2002. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng từ năm 2017 phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống không thể giải quyết được, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa bà N và ông H không còn, bà N yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông H để ổn định cuộc sống. Bà N và ông H có 01 con chung tên là Võ Kiều V, sinh ngày 16 tháng 11 năm 2006, bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đ (ba triệu đồng) từ ngày ly hôn cho đến khi con chung trưởng thành. Sau khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử bà N có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, nhưng vẫn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông H, về con chung: Bà N vẫn yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Tòa án đã thông báo về việc thụ lý vụ án cho đương sự, triệu tập ông H tới Tòa án để ghi bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông H đều vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, bà N vẫn xin được giải quyết ly hôn. Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập ông H tham gia phiên tòa, tại phiên tòa này ông H vẫn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn chưa thực hiện đúng quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đi với yêu cầu của nguyên đơn xin được giải quyết ly hôn theo nội dung đã trình bày là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả làm việc tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về tố tụng:

[3] Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số: 52, quyển số: 01/02 ngày 11 tháng 3 năm 2002 do Ủy ban nhân dân phường M, quận G, Thành phố H cấp cho bà Ngô Thị Kiều N và ông Võ H đã xác định quan hệ hôn nhân giữa bà N và ông H là quan hệ hôn nhân hợp pháp được điều chỉnh bởi Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Yêu cầu xin ly hôn của bà N đối với ông H là quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[5] Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn đươc triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự.

[6] Về nội dung:

[7] Đối với yêu cầu ly hôn của bà N thì Hội đồng xét xử nhận thấy:

[8] Bà N yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn, theo nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng không còn tình cảm, có mâu thuẫn trầm trọng, hiện nay vợ chồng không còn chung sống. Như vậy, là vợ chồng không còn thương yêu nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc ông H không tới Tòa án tham gia các phiên hòa giải, phiên tòa cũng đã thể hiện ông H không mong muốn đoàn tụ với bà N, Hội đồng xét xử thấy rằng nên chấp nhận giải quyết cho ly hôn theo yêu cầu của nguyên đơn.

[9] Hiện nay con chung là Võ Kiều V vẫn đang sống với bà N và bà cũng xin được tiếp tục trực tiếp nuôi con, cháu V có nguyện vọng được sống chung với mẹ, nên Hội đồng xét xử nhận thấy cần đảm bảo cho sinh hoạt, học hành của cháu V được ổn định, nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn và giao cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng cháu V. Do bà N tự nguyện không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bà N và không buộc ông H cấp dưỡng nuôi con.

[10] Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung nên Hội đồng xét xử không xét.

[11] Từ những nhận định như trên Hội đồng xét xử thống nhất giải quyết cho bà N được ly hôn với ông H, cụ thể như sau:

[12] Về quan hệ hôn nhân: Bà N được ly hôn với ông H, quan hệ hôn nhân chấm dứt khi có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

[13] Về con chung: Giao cho bà Ngô Thị Kiều N trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Võ Kiều V, sinh ngày 16 tháng 11 năm 2006 từ ngày ly hôn cho đến khi con chung trưởng thành. Bà N không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

[14] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

[15] Bà N phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng) theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 150, Điều 203, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

Bà Ngô Thị Kiều N được ly hôn với ông Võ H.

Quan hệ hôn nhân theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 52, quyển số: 01/02 ngày 11 tháng 3 năm 2002 do Ủy ban nhân dân phường m, quận G, Thành phố H cấp cho bà Ngô Thị Kiều N với ông Võ H chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Giao cho bà Ngô Thị Kiều N trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Võ Kiều V, sinh ngày 16 tháng 11 năm 2006 từ ngày ly hôn cho đến khi con chung trưởng thành. Bà N không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Ông H được quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được cản trở quyền này của ông H Nếu ông H lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của ông H.

Vì quyền lợi mọi mặt của con chung, khi cần thiết có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

2. Án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng) bà N phải chịu, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đ (ba trăm ngàn đồng) bà N đã tạm nộp án phí theo biên lai số: AA/2018/0000390 ngày 03 tháng 4 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp. Bà N đã nộp đủ án phí.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo các quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

5. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 986/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:986/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về