Bản án 98/2021/HS-ST ngày 13/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 98/2021/HS-ST NGÀY 13/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 80/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 227/2021/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn D, sinh ngày 09 tháng 7 năm 1990 tại Hải Phòng; đăng ký hộ khẩu thường trú: số 32/79 N, phường N, quận Lê Chân, Hải Phòng; tạm trú: Số 34/160 đường 208 A, xã Đ, huyện A, Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị L; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 13/4/2021, tạm giam ngày 22/4/2021; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 00 giờ 30 phút ngày 13/4/2021, tổ công tác Công an phường N trong khi làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa nhà số 66/280 T, phường N, quận Lê Chân, Hải Phòng đã phát hiện Nguyễn Văn D đang điều khiển xe máy biển kiểm soát 15C1-23892 có biểu hiện nghi vấn. Tiến hành kiểm tra, thu giữ trong túi quần bên trái phía trước của D 01 túi nilon bên trong chứa tinh thể trắng nghi là ma túy. Tổ công tác đã đưa D cùng vật chứng về trụ sở Công an phường Niệm Nghĩa lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số 257/KLGĐ-MT ngày 15/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nilon thu giữ của D là ma túy, có khối lượng 0,26gam, là loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn D khai nhận: Vào khoảng 23 giờ 30phút ngày 12/4/2021, D điều khiển xe máy từ nhà đến ngõ 380 T, quận Lê Chân, Hải Phòng để mua ma túy sử dụng. Khi đi đến khu vực đường tàu, D gặp và mua của người nam giới không quen biết 01 túi ma túy đá giá 200.000 đồng. Mua xong, D cất ma túy vào túi quần bên trái phía trước rồi điều khiển xe đi về, khi đi đến khu vực trước cửa nhà số 66/280 T, phường N, quận Lê Chân, Hải Phòng thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ. Ngoài ra D còn khai, trước khi bị bắt D đã 01 lần mua ma túy của nam giới này nhưng không nhớ rõ thời gian cụ thể.

Tại Cáo trạng số 90/CT-VKS ngày 27 tháng 7 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D mức án từ 12 đến 15 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Do bị cáo không nghề nghiệp, không thu nhập ổn định và không có tài sản riêng nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong lượng ma túy còn lại sau giám định cùng vỏ bao gói.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng, báo cáo bắt giữ, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào hồi 00 giờ 30 phút ngày 13/4/2021, tại khu vực trước cửa nhà số 66/280 T, phường N, quận L, Hải Phòng, bị cáo Nguyễn Văn D đã có hành vi cất giữ trái phép 0,26g (không phẩy hai sáu gam) Methamphetamine để sử dụng. Do vậy, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy vi phạm điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, làm suy thoái đạo đức, lối sống và là nguyên nhân làm phát sinh những tội phạm khác. Methamphetamine nằm trong danh mục chất ma tuý do Nhà nước quản lý, chỉ được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều trị, nhưng để thỏa mãn nhu cầu của mình bị cáo đã bất chấp pháp luật, cất giữ trái phép để sử dụng, tội phạm bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp và quyết tâm phạm tội cao. Vì vậy, cần xét xử bị cáo một mức án nghiêm, bắt cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự - Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Nhân thân bị cáo chưa tiền án, tiền sự; tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã khai báo thành khẩn hành vi phạm tội của mình nên cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì bị cáo có thể bị phạt bổ sung là phạt tiền. Do bị cáo không nghề nghiệp, không thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[7] Số ma tuý mà cơ quan Công an thu giữ khi bắt giữ bị cáo, sau khi lấy đi giám định, lượng còn lại xét là vật Nhà nước cấm lưu hành nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu huỷ.

[8] Đối với chiếc xe máy Yamaha Jupiter biển kiểm soát 15C1-23892, quá trình điều tra xác định là tài sản của ông Nguyễn Văn L (bố đẻ của D). Khi cho mượn, ông L không biết D sử dụng xe để đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã trả lại chiếc xe trên cho ông Lợi sử dụng.

- Về các vấn đề khác:

[9] Đối với người nam giới bán ma túy cho D do không xác định được căn cước, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra làm rõ.

[10] Đối với việc D khai trước khi bị bắt đã 01 lần mua ma túy của nam giới trên nhưng không nhớ thời gian và số lượng ma túy mua được thì D đã sử dụng hết. Ngoài lời khai của D không còn chứng cứ tài liệu nào khác nên không đủ cơ sở kết luận.

- Về án phí:

[11] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn D 12 (mười hai) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 13 tháng 4 năm 2021.

Về xử lý tang vật: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong lượng ma túy còn lại sau giám định cùng vỏ bao gói.

(Theo đúng Biên bản giao nhận tài sản, vật chứng ngày 27 tháng 7 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2021/HS-ST ngày 13/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:98/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về