Bản án 98/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA ,TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 98/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ LY HÔN

 Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa (toạ lạc tại Khu B, thị trấn Hậu Nghĩa) tiến hành xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 1342/2020/TLST-HNGĐ ngày 08/12/2020 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/QĐXXST-HNGĐ ngày 16/3/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hồ Xuân K, sinh năm 1996. Địa chỉ: Z, ấp L, xã L, thị xã H, tỉnh Y (có mặt). Bị đơn: Anh Trương Hoàng T, sinh năm 1994. Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện Đ, tỉnh L (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 07/12/2020 và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị Hồ Xuân K trình bày: Chị và anh Trương Hoàng T sống với nhau năm 2019, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Phú, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Thời gian đầu chung sống, vợ chồng hạnh phúc, sau đó bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã. Anh T không lo làm ăn, hay uống rượu rồi về chửi bới chị, chị đã cố gắng khuyên can nhưng anh T không thay đổi, chị và anh T sống ly thân từ tháng 9 năm 2020 cho đến nay. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn và cũng không thể hàn gắn nên chị xin ly hôn anh T.

Về con chung: Trương Gia Huy, sinh ngày 11/7/2020. Hiện con đang sống với chị, sau khi ly hôn chị xin tiếp tục nuôi, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hiện tại chị làm công nhân, có thu nhập ổn định nên chị xin được quyền nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Trương Hoàng T trình bày theo bản tự khai ngày 30/12/2020 như sau: Anh trình bày về thời gian chung sống, điều kiện kết hôn, thời gian ly thân, về con chung, tài sản chung, nợ chung như chị K đã trình bày. Vợ chồng chung sống không có phát sinh mâu thuẫn. Tháng 7 năm 2020 chị K về nhà cha, mẹ ruột để sinh con, anh có phát sinh mâu thuẫn với cha, mẹ vợ. Vì vậy nên chị K không chịu về chung sống với anh mà ở luôn nhà cha, mẹ ruột. Do vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn nên chị K xin ly hôn anh không đồng ý. Anh mong muốn vợ, chồng quay lại chung sống để cùng lo cho con.

Về con chung: Trương Gia Huy, sinh ngày 11/7/2020. Nếu tòa xử cho ly hôn anh xin nuôi con, anh không yêu cầu chị K cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Hồ Xuân K khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Trương Hoàng T, anh T hiện có hộ khẩu thường trú tại xã T, huyện Đức Hòa nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Anh T đã được tống đạt các thủ tục theo quy định của pháp luật nhưng anh T vẫn vắng mặt nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ Xuân K và anh Trương Hoàng T chung sống với nhau vào năm 2019 có đăng ký kết hôn, nên hôn nhân giữa chị K và anh T được xem là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trong quá trình chung sống, chị K và anh T phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị K xin ly hôn anh T. Ngược lại, anh T không đồng ý ly hôn.

[3] Xét thấy chị K và anh T chung sống với nhau, phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ tháng 9 năm 2020 cho đến nay. Từ khi sống ly thân cho đến nay, chị K và anh T không tự giải quyết được mâu thuẫn để vợ, chồng đoàn tụ nên chị K cương quyết xin ly hôn. Anh T mặc dù không đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được biện pháp nào để khắc phục mâu thuẫn. Tại phiên tòa xét xử anh T vắng mặt không có lý do, điều đó thể hiện anh T không có thiện chí hàn gắn. Do đó, xét thấy hôn nhân giữa chị K và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, đời sống vợ chồng không có hạnh phúc, chị K xin ly hôn với anh T là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị K đối với anh T.

Con chung: Trương Gia Huy, sinh ngày 11/7/2020. Sau khi ly hôn chị K và anh T đều xin được quyền nuôi con. Xét thấy từ khi sống ly thân đến nay, Trương Gia Huy sống ổn định với chị K, cháu phát triển bình thường, chị K làm công nhân và có thu nhập ổn định. Hơn nữa, cháu chưa đủ một tuổi, cháu còn quá nhỏ, cần phải có sự chăm sóc của người mẹ nên cần phải giao cháu cho chị K tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Cấp dưỡng: Chị K không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Tài sản chung và nợ chung: Chị K và anh T khai không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Chị K phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, 53, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hồ Xuân K đối với anh Trương Hoàng T về việc “ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ Xuân K được ly hôn với anh Trương Hoàng T.

- Việc nuôi con: Chị K được quyền tiếp tục nuôi Trương Gia Huy, sinh ngày 11/7/2020, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị K không có yêu cầu. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, bên trực tiếp nuôi con không được quyền ngăn cản. Khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

2. Về án phí: Chị Hồ Xuân K chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ nhà nước, chị K được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0007018 ngày 07/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành.

Án sơ thẩm xét xử công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn

Số hiệu:98/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về