Bản án 98/2021/HNGĐ-ST ngày 11/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 98/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 11 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T,  thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 27/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2021 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H, sinh năm 1992; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 7, xã T, huyện T,  thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn 11, xã H, huyện T,  thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đồng H, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn 7, xã T, huyện T,  thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 31/12/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Phạm Thị H trình bày:

1. Về hôn nhân:

Chị H và anh Nguyễn Đồng H kết hôn với nhau vào năm 2012 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 72/2015 ngày 15/12/2015 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T,  thành phố Hải Phòng. Sau khi cưới cả hai vợ chồng về làm ăn sinh sống với gia đình nhà chồng tại thôn 7, xã T. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách hai bên không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống và không hợp nhau trong làm ăn kinh tế dẫn đến cãi mắng, xúc phạm nhau, vợ chồng không còn tình cảm. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhưng không  thành. Do đó vợ chồng sống ly thân, chị cùng con chung về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên sâu sắc, trầm trọng, không còn khả năng đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh H.

2. Về con chung:

Chị H trình bày chị và anh H có 01 con chung tên là Nguyễn Đồng Tâm Phúc sinh ngày 16/10/2018. Khi ly hôn, chị đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi con chung, về cấp dưỡng nuôi con chung chị không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung:

Chị H trình bày không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Đồng H là bị đơn trong vụ án, trong quá trình giải quyết vụ án có những quan điểm sau:

Anh và chị H kết hôn với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T,  thành phố Hải Phòng vào năm 2015. Sau cưới vợ chồng về chung sống tại thôn 7, xã T cùng bố mẹ chồng. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do mâu thuẫn giữa con dâu và mẹ chồng nên chị H tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại xã Hoa Động sinh sống cho đến nay. Anh mong muốn Hàn gắn tình cảm vợ chồng để đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên ngày 06/5/2021, anh H trình bày quan điểm: Sau một thời gian từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến nay, anh cùng gia đình đã nhiều lần gặp gỡ chị H để nói chuyện nhưng chị H không đồng ý việc vợ chồng về đoàn tụ và kiên quyết ly hôn. Vì vậy anh xác định giữa anh và chị H không còn tình cảm vợ chồng, không thể đoàn tụ với nhau được nữa nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh và chị H được ly hôn.

 Về con chung: Có một con chung Nguyễn Đồng Tâm Phúc sinh ngày 16/10/2018, hiện nay con đang ở với chị H. Khi ly hôn, anh đồng ý để chị H tiếp tục nuôi con vì tuổi của con chung còn nhỏ. Trường hợp chị H không đồng ý nhận nuôi con thì đề nghị chị H đưa con về để anh trực tiếp nuôi. Về cấp dưỡng nuôi con, anh trình bày để hai bên tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh trình bày vợ chồng không có tài sản chung và không có yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị Tòa án giải quyết ngay việc ly hôn cho vợ chồng anh chị để còn ổn định cuộc sống và vì bận công việc nên anh đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh.

Biên bản xác minh ngày 05/02/2021 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T,  thành phố Hải Phòng thể hiện: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Đồng H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T,  thành phố Hải Phòng theo giấy chứng nhận kết hôn số 72 ngày 15/12/2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng chuyển về sinh sống tại xã T, huyện T,  thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng không còn tình cảm. Mâu thuẫn giữa vợ chồng đã được hòa giải nhưng không  thành, vợ chồng đã sống ly thân. Chị Hcó đơn xin ly hôn đề nghị Tòa án căn cứ vào pháp luật giải quyết.

Về con chung: Chị H và anh H có 01 con chung tên là Nguyễn Đồng Tâm Phúc sinh ngày 16/10/2018, chị H và anh H đều có điều kiện nuôi con đề nghị Tòa án căn cứ vào pháp luật giải quyết. Về tài sản chung của vợ chồng: Địa phương không nắm được và đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, đương sự chấp Hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, xử: Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Đồng H; về con chung: Giao cho chị Phạm Thị H trực tiếp nuôi con chung tên là Nguyễn Đồng Tâm Phúc sinh ngày 16/10/2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; về cấp dưỡng nuôi con chung và về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T,  thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa và đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227; 228; 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến Hành xét xử vụ án;

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Đồng H đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 72 ngày 15/12/2015 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T,  thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh tại địa phương thể hiện trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng không còn tình cảm. Mâu thuẫn giữa vợ chồng đã được hòa giải nhưng không  thành. Vợ chồng đã sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau, chị H cùng con chung bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Cho nên mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trở nên sâu sắc, trầm trọng không thể Hàn gắn tình cảm được và không còn quan tâm đến nhau. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị H yêu cầu ly hôn, anh H đồng ý ly hôn, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ly hôn giữa chị H và anh H.

[3]. Về con chung: Chị H và anh H có 01 con chung tên là Nguyễn Đồng Tâm Phúc sinh ngày 16/10/2018. Khi ly hôn, chị H đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi con chung, anh H đồng ý để chị H tiếp tục nuôi con chung vì con chung còn nhỏ tuổi. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con chung. Xét thấy, chị H đang trực tiếp nuôi con chung vẫn ổn định và được đảm bảo tốt về mọi mặt. Chị H, anh H đều có đủ điều kiện, khả năng nuôi con chung. Do vậy, cần giao con chung Nguyễn Đồng Tâm Phúc cho chị H tiếp tục trực tiếp nuôi là phù hợp với các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H và anh H không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Chị H, anh H không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[6]. Về quyền kháng cáo: Chị H và anh H có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227, 228; 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Đồng H.

2. Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị H trực tiếp nuôi con chung tên là Nguyễn Đồng Tâm Phúc sinh ngày 16/10/2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Đồng H không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Đồng H không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015704 ngày 20 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi Hành án dân sự huyện T,  thành phố Hải Phòng. Chị Phạm Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị H và anh Nguyễn Đồng H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

7. Trường hợp quyết định được thi Hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi Hành án dân sự thì người được thi Hành án dân sự, người phải thi Hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi Hành án, quyền yêu cầu thi Hành án, tự nguyện thi Hành án hoặc bị cưỡng chế thi Hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi Hành án dân sự; thời hiệu thi Hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi Hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 98/2021/HNGĐ-ST ngày 11/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:98/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về