Bản án 94/2021/HNGĐ-ST ngày 04/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 94/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 04 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 29/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2021 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 77/2021/QĐST- HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2021, G các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn G, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn G, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 29/12/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị X trình bày:

1. Về hôn nhân:

Chị X và anh Nguyễn Mạnh H kết hôn với nhau vào năm 2010 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 36 ngày 16/4/2010 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chung sống thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, đến năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn căng thẳng. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách hai bên không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, lối sống, vợ chồng không có tiếng nói chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau dẫn đến vợ chồng không còn tình cảm. Mâu thuẫn G vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh H.

2. Về con chung:

Chị X trình bày chị và anh H có 02 con chung tên là Nguyễn Bảo An sinh ngày 14/12/2015 và Nguyễn Minh Khang sinh ngày 07/7/2017. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung Nguyễn Bảo An và đồng ý để anh H được trực tiếp nuôi con chung Nguyễn Minh Khang, về cấp dưỡng nuôi con chung, chị trình bày để vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết với nhau và không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung:

Chị X trình bày không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Mạnh H là bị đơn trong vụ án và đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần, cho đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai vẫn không có ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Các biên bản xác minh và biên bản làm việc đề ngày 23/01/2021 và ngày 16/4/2021 tại Ủy ban nhân dân, Công an xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng thể hiện: Chị Nguyễn Thị X và Anh Nguyễn Mạnh H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 36 ngày 16/4/2010. Quá trình chung sống vợ chồng làm ăn sinh sống tại thôn G, xã T. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn G vợ chồng đã được hòa giải nhưng không thành. Hiện nay anh H và chị X đã sống ly thân, anh H vẫn đang làm ăn sinh sống tại địa phương, anh H và chị X do mâu thuẫn đã xảy ra đánh cãi nhau, chị X đã ra ngoài thuê ở trọ và anh H cùng các con đăng ăn ở sinh sống cùng với gia đình anh H. Chị X có đơn xin ly hôn, vợ chồng đã mâu thuẫn từ lâu và đang sống ly thân đề nghị Tòa án căn cứ vào pháp luật giải quyết.

Về con chung: Chị X và anh H có hai con chung tên là Nguyễn Bảo An sinh ngày 14/12/2015 và Nguyễn Minh Khang sinh ngày 07/7/2017, chị X và anh H đều có điều kiện nuôi con đề nghị Tòa án căn cứ vào pháp luật giải quyết. Về tài sản chung của vợ chồng: Địa phương không nắm được và đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử: Về hôn nhân: Cho ly hôn G chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Mạnh H; về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị X trực tiếp nuôi con chung tên là Nguyễn Bảo An sinh ngày 14/12/2015 và giao anh Nguyễn Mạnh H trực tiếp nuôi con chung tên là Nguyễn Minh Khang sinh ngày 07/7/2017 cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; về cấp dưỡng nuôi con chung và về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là Chị Nguyễn Thị X vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân G chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Mạnh H đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 36 ngày 16/4/2010 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh tại địa phương thể hiện trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên có xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Mâu thuẫn G vợ chồng đã được hòa giải nhưng không thành dẫn đến vợ chồng sống ly thân. Cho nên mâu thuẫn G vợ chồng đã trở nên sâu sắc, trầm trọng không thể hàn gắn tình cảm được và không còn quan tâm đến nhau. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị X yêu cầu ly hôn, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ly hôn G chị X và anh H.

[3]. Về con chung: Chị X và anh H có 02 con chung tên là Nguyễn Bảo An sinh ngày 14/12/2015 và Nguyễn Minh Khang sinh ngày 07/7/2017. Khi ly hôn, chị X đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi con chung Nguyễn Bảo An và đồng ý giao con chung tên là Nguyễn Minh Khang cho anh H nuôi. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con chung. Xét thấy, chị X và anh H đều có khả năng, điều kiện nuôi con chung. Do vậy, cần giao con chung Nguyễn Bảo An cho chị X trực tiếp nuôi và giao con chung tên là Nguyễn Minh Khang cho anh H trực tiếp nuôi là phù hợp với các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị X không có yêu cầu Tòa án giải quyết và anh H không có trình bày quan điểm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Chị X không có yêu cầu Tòa án giải quyết, anh H không có quan điểm trình bày gì nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí: Chị X phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[6]. Về quyền kháng cáo: Chị X và anh H có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn G chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Mạnh H.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị X trực tiếp nuôi con chung tên là Nguyễn Bảo An sinh ngày 14/12/2015 và giao cho anh Nguyễn Mạnh H trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Minh Khang sinh ngày 07/7/2017 cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị X không có yêu cầu Tòa án giải quyết và anh Nguyễn Mạnh H không có trình bày quan điểm gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị X không có yêu cầu Tòa án giải quyết và anh Nguyễn Mạnh H không có trình bày quan điểm gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị X phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015706 ngày 20 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị X đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Mạnh H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

7. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

364
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 94/2021/HNGĐ-ST ngày 04/06/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:94/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về