Bản án 98/2020/HS-ST ngày 27/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Q, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 98/2020/HS-ST NGÀY 27/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 92/2020/TLST- HS ngày 10 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2020/QĐXXST- HS ngày 16/9/2020 đối với bị cáo:

Đặng Tuấn A, sinh ngày 30/9/1981; Nơi cư trú: tổ 10, phường M, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Đặng Văn Y, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1952; Anh, chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là thứ ba; Vợ thứ nhất: Duy Thị Mai H, sinh năm 1987 (Đã ly hôn); Vợ hiện tại: Vi Thị T, sinh năm 1993; Con: có 03 con, con lớn sinh năm 2009, con thứ 2 sinh năm 2018, con thứ 3 sinh 06/8/2020.

* Tiền án, tiền sự: Không.

* Nhân thân:

- Ngày 04/11/1999 Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 18 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích tại Bản án số 136/1999/HSPT;

- Ngày 17/7/2003 Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản tại Bản án số 81/ 2003/HSST;

- Ngày 27/4/2010 Tòa án nhân dân thị xã Q (nay là thành phố Q), tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy tại Bản án số 20/2010/HSST;

- Ngày 12/02/2018 Công an phường T xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.500.000đ về hành vi Trộm cắp tài sản tại Quyết định số 25.

- Ngày 11/10/2018 Công an thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc tại Quyết định số 304

* Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/6/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trên cơ sở kết quả điều tra đã xác định được như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 03/6/2020, Đặng Tuấn A, cư trú tại tổ 10, phường M, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang là người nghiện ma túy điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 22K9 - 1799 (xe của vợ bị cáo là Vi Thị T) đến khu vực Bến xe khách thành phố Q thuộc tổ 01, phường T, thành phố Q, mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Tại khu vực Bến xe khách thành phố Q, Đặng Tuấn A gặp hỏi mua được 01 gói nhỏ Heroine gói bằng giấy bạc màu trắng của một người đàn ông xe ôm theo Đặng Tuấn A khai tên H, không biết tên thật, địa chỉ, với số tiền 800.000 đồng. Đặng Tuấn A cầm gói Heroine trong lòng bàn tay trái tiếp tục điều khiển xe mô tô đi sang nhà Hà Hoàng N, cư trú tại tổ 5, phường N, thành phố Q để lấy chiếc quạt điện, khi đi đến khu vực ngã 4 thuộc tổ 3, phường N, thành phố Q, thì bị Tổ công tác Công an tỉnh Tuyên Quang đang làm nhiệm vụ phát hiện, yêu cầu dừng xe Đặng Tuấn A đã thả gói Heroine xuống đường, tổ công tác phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 16 giờ cùng ngày. Thu giữ 01 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA đã qua sử dụng; 02 bơm kim tiêm chưa sử dụng; 02 lọ nước NOVOCAIN 3%; 02 lọ nước DIMEDROL 10mg/1ml; 01 xe mô tô biển kiểm soát 22K9 - 1799 đã qua sử dụng.

Tại Bản Kết luận giám định số 458/GĐKTHS ngày 06/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Mẫu vật thu giữ của Đặng Tuấn A gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, số thứ tự 09 thuộc danh mục IA, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018; khối lượng 0,600g (Không phẩy sáu không không gam).

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Đặng Tuấn A, kết quả: (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể. Đăng Tuấn A khai đã sử dụng ma túy sáng ngày 03/6/2020.

Tại bản Cáo trạng số 92/CT-VKSTP ngày 09 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q đã truy tố bị cáo Đặng Tuấn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đặng Tuấn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Đặng Tuấn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo Đặng Tuấn A từ 01 năm (06) sáu tháng tù đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù; Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, trên các mép dán có chữ ký của Đặng Tuấn A, chữ ký của giám định viên và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang bên trong có 0,55 gam Heroine (còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định); 02 bơm kim tiêm chưa sử dụng; 02 lọ nước NOVOCAIN 3%; 02 lọ nước DIMEDROL 10mg/1ml; Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA đã qua sử dụng; Tuyên quyền kháng cáo và nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Đặng Tuấn A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Tuấn A tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ; kết luận giám định và cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 16 giờ ngày 03/6/2020, tại tổ 03, phường N, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang. Đặng Tuấn A, cư trú tại tổ 10, phường M, thành phố Q, tỉnh Tuyên Quang, đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,600g (Không phẩy sáu không không gam) Heroine. Mục đích để sử dụng.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, hành vi của bị cáo xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, hành vi của bị cáo cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Q. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Q.

[6]Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 03/6/2020 của bị cáo Đặng Tuấn A. Công an tỉnh Tuyên Quang xử phạt hành chính tại Quyết định số 366 ngày 03/6/2020, phạt Cảnh cáo. Đối với người đàn ông theo bị cáo khai nhận tên Hải là người bán Heroine cho bị cáo khu vực Bến xe khách thành phố Q, nhưng không xác định được tên thật, địa chỉ, không có căn cứ để xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về vật chứng:

- 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, trên các mép dán có chữ ký của Đặng Tuấn A, chữ ký của giám định viên và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang bên trong có 0,55 gam Heroine (còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định); 02 bơm kim tiêm chưa sử dụng; 02 lọ nước NOVOCAIN 3%; 02 lọ nước DIMEDROL 10mg/1ml là vật chứng của vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy Heroine là chất cấm tàng trữ, bơm kim tiêm và hai lọ nước cất không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA đã qua sử dụng. Xét thấy đây là tài sản của bị cáo và không phải là công cụ phạm tội trong vụ án nên tuyên trả cho bị cáo;

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 22K9 - 1799 đã qua sử dụng, ngày 28/8/2020 Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho Vi Thị T là chủ sở hữu hợp pháp. Do vậy, HĐXX không xem xét.

[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Tuấn A phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Đặng Tuấn A 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 03/6/2020.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, trên các mép dán có chữ ký của Đặng Tuấn A, chữ ký của giám định viên và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang bên trong có 0,55 gam Heroine (còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định); 02 bơm kim tiêm chưa sử dụng; 02 lọ nước NOVOCAIN 3%; 02 lọ nước DIMEDROL 10mg/1ml;

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA đã qua sử dụng.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Q và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q ngày 18/9/2020.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án 27/9/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2020/HS-ST ngày 27/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:98/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về