TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 98/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 16 tháng 7 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 228/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2020 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Thạch Thị Sa V, sinh năm 1989 (có mặt) Địa chỉ: Ấp 2, xã P, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh
Bị đơn: Anh Lê Hoàng E, sinh năm 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 5, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Tại đơn khởi kiện ngày 04/5/2020, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị Thạch Thị Sa V trình bày:
Chị và anh Hoàng E đuợc hai bên gia đình tổ chức lễ cưới trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 23/4/2013. Thời gian chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, cuộc sống hôn nhân không hạnh P nên anh chị đã ly thân từ ngày 30/4/2019 đến nay. Xét thấy không thể tiếp tục chung sống được nữa nên chị yêu cầu ly hôn với anh Lê Hoàng E.
Về con chung: Chị và anh Hoàng E có 03 người con chung tên Lê Hoàng Th, sinh ngày 05/10/2013; Lê Trọng P, sinh ngày 28/9/2015 và Lê Phúc A, sinh ngày 01/3/2018. Hiện nay cháu Th do anh Hoàng E nuôi dạy, cháu P và cháu A do chị V nuôi dạy. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy cháu P và cháu An, không yêu cầu anh Hoàng E cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Th chị tự nguyện giao cho anh Hoàng E tiếp tục nuôi dạy, chị không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Thạch Thị Sa V khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là anh Lê Hoàng E. Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn; Anh Hoàng E có địa chỉ tại ấp 5, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của chị V thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Hoàng E nhưng anh Hoàng E không có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu của chị V và vắng mặt không có lý do. Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử và có tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng này cho anh Hoàng E nhưng anh Hoàng E vắng mặt tại các lần xét xử không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Hoàng E theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án:
[3] Về hôn nhân: Chị Thạch Thị Sa V và anh Lê Hoàng E tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 23/4/2013. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa anh chị đã tuân thủ về điều kiện đăng ký kết hôn tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 8, 9 của luật hôn nhân và gia đình nên được pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Tại đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa chị V cho rằng thời gian chung sống giữa anh chị xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, cuộc sống hôn nhân không hạnh P, anh chị đã ly thân từ ngày 30/4/2019 nay nên chị V yêu cầu ly hôn với anh Hoàng E. Điều này phù hợp với xác nhận ngày 08/6/2020 của chính quyền địa phương. Xét thấy, trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành hòa giải để chị V và anh Hoàng E có điều kiện gặp nhau thỏa thuận đoàn tụ gia đình nhưng không có kết quả do anh Hoàng E vắng mặt tại các lần hòa giải, xét xử không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị V và anh Hoàng E đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Thạch Thị Sa V và anh Lê Hoàng E được ly hôn là phù hợp.
[4] Về con chung: Chị V tự nguyện giao cháu Lê Hoàng Th, sinh ngày 05/10/2013 cho anh Hoàng E tiếp tục nuôi dạy; chị V yêu cầu tiếp tục nuôi dạy 02 cháu Lê Trọng P, sinh ngày 28/9/2015 và Lê Phúc A, sinh ngày 01/3/2018. Xét thấy, cháu Th hiện tại do anh Hoàng E nuôi dạy, cháu P và cháu An do chị V đang nuôi dạy, việc hoán đổi nuôi con sẽ ảnh hưởng đến tình cảm của các cháu. Đồng thời, từ khi thụ lý vụ án Tòa án có thông báo cho anh Hoàng E về việc chị V yêu cầu nuôi dạy cháu P và cháu An nhưng anh Hoàng E không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị V. Do đó, cần tiếp tục giao cháu Th cho anh Hoàng E nuôi dạy, giao cháu P và cháu An cho chị V tiếp tục nuôi dạy là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị V không trực tiếp nuôi dạy cháu Th, anh Hoàng E không trực tiếp nuôi dạy cháu P và cháu A nhưng anh chị có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Đối với việc cấp dưỡng nuôi con chị V không yêu cầu nên không xét.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị V xác định vợ chồng không có tài snar chung và không có nợ chung, không ai yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Thạch Thị Sa V phải chịu án phí – Theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chị Thạch Thị Sa V và anh Lê Hoàng E được ly hôn.
2. Về con chung: Giao cháu Lê Hoàng Th, sinh ngày 05/10/2013 cho anh Lê Hoàng E tiếp tục nuôi dạy, giao các cháu Lê Trọng P, sinh ngày 28/9/2015 và Lê Phúc A, sinh ngày 01/3/2018 cho chị Thạch Thị Sa V tiếp tục nuôi dạy. Chị Thạch Thị Sa V và anh Lê Hoàng E không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị V không trực tiếp nuôi dạy cháu Th, anh Hoàng E không trực tiếp nuôi dạy cháu P và cháu An nhưng anh chị có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Thạch Thị Sa V phải chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng). Vào ngày 04 tháng 5 năm 2020 chị V có dự nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0011143 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau nay được chuyển thu án phí.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
5. Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Báo cho đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh Hoàng E vắng mặt nên có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ. Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định.
Bản án 98/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 98/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về