Bản án 98/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 98/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 31 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 418/2018/TLST-HNGĐ ngày 25/6/2018 về việc tranh chấp “Xin ly hôn”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 21/9/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Mồng Phu N, sinh năm 1985. Cư trú tại: Đường B, tổ T, Phường K, thành phố Đ.

2. Bị đơn: Ông Lý Nguyễn Trường S, sinh năm 1975. Cư trú tại: Đường B, tổ T, Phường K, thành phố Đ.

(bà N có mặt; ông S vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trình bày tại phiên tòa của nguyên đơn:

Về quan hệ hôn nhân: Bà N và ông S có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường K, thành phố Đ vào ngày 09/11/2010. Hôn nhân tự nguyện có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại địa chỉ: Đường B, tổ T, Phường K, thành phố Đ.. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được 6 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông S không chịu làm ăn, thường xuyên nhậu nhẹt về nhà hăm dọa, đánh đập vợ con. Vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2016. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, bà N đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Lý Nguyễn Trường S.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Lý Lệ Q, sinh ngày24/10/2014 và cháu Lý Đăng K, sinh ngày 27/6/2011. Hiện đang sống cùng vợ chồng. Khi ly hôn bà N yêu cầu được trực tiếp, chăm sóc nuôi dưỡng 02 con chung đến tuổi trưởng thành. Bà N không yêu cầu ông S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.Tòa án nhân dân thành phố Đ đã niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, nhưng bị đơn là ông Lý Nguyễn Trường S không gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình; cũng không đến Tòa án nhân dân thành phố Đ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật; riêng bị đơn không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ quy định; về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn giao cháu Q và cháu K cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng. Ông S không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiêntòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Mồng Phu N có mặt; Bị đơn là ông Lý Nguyễn Trường S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa và không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

 [2]Về quan hệ tranh chấp: Trên cơ sở Giấy chứng nhận kết hôn số 43, Quyển số 01 năm 2010 Ủy ban nhân dân Phường K, thành phố Đ thì ông Lý Nguyễn Trường S và bà Mồng Phu N có đăng ký kết hôn vào ngày 09 tháng 11 năm 2010. Hôn nhân tự nguyện có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán, hiện nay ông S cư trú tại: Đường B, tổ T, Phường K, thành phố Đ nên bà N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn với ông S, đây là quan hệ tranh chấp “Xin ly hôn” theo qui định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đ - tỉnh Lâm Đồng.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

 [3] Về quan hệ hôn nhân: Nguyên nhân mâu thuẫn của Bà N và ông S là xảy ra trên thực tế. Qua xác minh thì thấy ông S và bà N thường xuyên cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Xét thấy trong quá trình Tòa án thụ lý vụ án đến khi xét xử thì ông S cũng không có văn bản nêu ý kiến của mình đối với các nguyên nhân mâu thuẫn mà bà N đưa là thể hiện việc không thiện chí hàn gắn. Mặt khác việc bà N và ông S ly thân một thời gian dài làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy bà N khởi kiện yêu cầu ly hôn ông S là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [4] Về con chung: Vợ chồng 02 con chung là cháu Lý Lệ Q, sinh ngày 24/10/2014 và cháu Lý Đăng K, sinh ngày 27/6/2011. Do con chung là cháu Q hiện nay còn nhỏ và cháu K có nguyện vọng ở với mẹ nên giao cháu Q và cháu K cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng là như phù hợp quy định pháp luật. Do bà N không có yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.

 [5] Về tài sản chung: Bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết, ông S không có ý kiến nên không xem xét giải quyết

 [6] Về nợ chung: Bà N xác định không có, ông S không có ý kiến nên không xem xét giải quyết.

 [7] Về án phí: Bà N phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quyđịnh của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; các Điều 35, 39, 147, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Mồng Phu N về việc “Xin ly hôn” ông Lý Nguyễn Trường S.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Mồng Phu N và ông Lý Nguyễn Trường S được ly hôn.

2. Về con chung: Buộc giao cháu Lý Lệ Q, sinh ngày 24/10/2014 và cháu Lý Đăng K, sinh ngày 27/6/2011 cho bà Mồng Phu N trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Ông S không phải cấp dưỡng nuôi con.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân gia đình.

3. Về án phí: Buộc bà Mồng Phu N phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2015/0008202 ngày 25/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng (bà N đã nộp đủ).

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị đơn vắng mặt, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án (hoặc bản án được niêm yết) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về ly hôn

Số hiệu:98/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về