Bản án 97/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 97/2019/HS-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 93/2019/TLST-HS ngày 16/7/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2019/QĐXXST-HS ngày 24/7/2019 đối với bị cáo:

Trần Trọng T, sinh năm 1995 tại tỉnh Hà Nam; nơi đăng ký NKTT; chỗ ở: thôn L, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Trọng V và bà Đặng Thị T; vợ, con: chưa có;

Tiền án: Ngày 10/3/2016, Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 19/4/2019 đến ngày 25/4/2019 chuyển tạm giam đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Trọng V, sinh năm 1965; Địa chỉ: Thôn L, xã Nhân T, huyện L, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

* Người làm chứng:

1/Anh Đinh Hữu Q, sinh năm 1991; Trú tại: Xóm 2, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam.Vắng mặt.

2/Anh Đinh Xuân Q, sinh năm 1988; Trú tại: Xóm 2, xã N, huyện K, tỉnh Hà Nam.Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 19/4/2019, Trần Trọng T điều kiển xe mô tô BKS 90H3 – 1560 từ nhà đến bệnh viện Đa khoa tỉnh Hà Nam thuộc tổ 5, phường Minh Khai, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để thăm người nhà ốm. Khi đến cổng bệnh viện, T gặp một người đàn ông lái xe ôm, khoảng 40 tuổi (T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể), T hỏi người đàn ông: “Anh có hàng không bán cho em ba trăm?” (ý T hỏi người đàn ông để mua ma túy với số tiền 300.000đ), người đàn ông trả lời: “Đưa tiền đây”. T liền đưa cho người đàn ông 300.000đ, người đó đưa lại cho T 02 gói giấy bạc màu vàng, biết là ma túy nên T không mở ra kiểm tra mà cất vào túi quần bên phải phía trước. Sau đó, Trần Trọng T tiếp tục điều khiển xe mô tô đến khu vực bờ kè sông Đáy gần ngã tư cầu P thuộc tổ dân phố H, phường T Châu, thành phố P. Tại đây, T gặp một nam T niên khoảng 26 tuổi không biết tên tuổi địa chỉ hỏi T mua ma túy. Nam T niên đưa cho T 320.000đ, T cầm tiền cất vào túi quần bên trái rồi lấy từ túi quần bên phải 02 gói giấy bạc màu vàng đưa cho người nam T niên nhưng chưa kịp đưa thì bị lực lượng Công an thành phố Phủ Lý phát hiện, nam T niên nhanh chóng bỏ chạy. Tại chỗ, T tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 02 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, T khai nhận đó là hai gói ma túy cất giữ mục đích để bán cho nam T niên đã bỏ chạy lấy tiền tiêu sài cá nhân. Lực lượng Công an đã đưa Trần Trọng T cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản theo quy định của pháp luật.

Thu giữ vật chứng, tài sản gồm: 02 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; 01 điện thoại nhãn hiệu Philips; 01 chiếc xe mô tô BKS: 90H3 – 1560; số tiền 320.000đ.

Tại bản kết luận giám định số 86/PC09-MT ngày 23/4/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận:“Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,201gam,loại Heroine.

Ngày 20/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp đối với nơi ở của Trần Trọng T tại thôn L xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Bản cáo trạng số 99/CT-VKS-PL ngày 05/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Trần Trọng T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Trọng T từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định; tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 320.000đ; trả lại Trần Trọng T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; 01 điện thoại nhãn hiệu Philips; trả lại ông Trần Trọng Vui 01 chiếc xe mô tô BKS: 90H3-1560.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Trọng T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo hứa thời gian cải tạo sẽ quyết tâm tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người tốt có ích cho xã hội.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Trọng Vui xác nhận chiếc xe mô tô BKS 90H3 – 1560 là của ông và ông không biết T mượn xe để thực hiện hành vi phạm tội nên xin lại xe để sử dụng làm phương tiện đi lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Trọng T đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 19/4/2019, tại khu vực bờ kè sông Đáy thuộc tổ dân phố H, phường T , thành phố P, tỉnh Hà Nam, Trần Trọng T đang cất giữ trái phép 0,201 gam Heroine mục đích để bán kiếm tiền tiêu sài cá nhân thì bị lực lượng Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội“Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Ngày 10/3/2016, Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”chưa được xóa án tích.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội nghiêm trọng chưa xóa án tích lại phạm tội nghiêm trọng do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình; tại phiên tòa bị cáo khai có thời gian tham gia quân ngũ và tài liệu đã nộp tại lần xét xử trước đây; trong bản án số 08/2016/HSST ngày 10/3/2016 của Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân thể hiện bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

nh phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo,thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo có mục đích mua bán để kiếm tiền tiêu sài cá nhân nên cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 251 và Điều 35 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên cần xem xét đến hoàn cảnh của bị cáo là người nghiện ma túy, là lao động tự do để quyết định mức phạt tiền phù hợp.

[6] Về các vấn đề khác: Về nguồn gốc ma túy, người bán ma túy cho T, người mua ma túy của T: Quá trình điều tra T khai mua của người đàn ông lái xe ôm gặp tại cổng bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Nam còn người mua ma túy của T là nam T niên khoảng 26 tuổi (T đều không rõ nhân thân, lai lịch). Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phủ Lý đã áp dụng các biện pháp điều tra xác minh làm rõ nhưng chưa xác định được, ngoài lời khai của T không có tài liệu, chứng cứ nào khác. Do vậy không có căn cứ để xử lý người bán ma túy cho T và người T bán ma túy trong vụ án này.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

+ Đối với số tiền 320.000đ thu giữ của Trần Trọng T là số tiền có do phạm tội mà có nên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

+ Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips là tài sản hợp pháp của T, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, cần trả lại cho bị cáo song giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

+ Đối với 01 chiếc xe mô tô BKS 90H3 - 1560 là tài sản hợp pháp của ông Trần Trọng V, ông V không biết T sử dụng xe mô tô để đi mua ma túy để bán nên trả lại ông V là phù hợp quy định pháp luật.

+ Đối với toàn bộ số Heroine cùng bao gói cần tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền kháng cáo theo pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 35, Điều 38, Điều 50, Điều 47của Bộ luật Hình sự.

Áp dụng các Điều 106; 136; 331;333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Áp dụng Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Trần Trọng T phạm tội:“Mua bán trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt bị cáo Trần Trọng T 36 (Ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/4/2019.

nh phạt bổ sung: Phạt bị cáo 5.000.000đ (Năm triệu đồng) sung Ngân sách Nhà nước.

[3] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 320.000đ (Ba trăm hai mươi nghìn đồng).

- Trả lại cho bị cáo Trần Trọng T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Philips song giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

- Trả lại ông Trần Trọng V 01 chiếc xe mô tô BKS 90H3- 1560.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01” số: 86/PC09-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

nh trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 07/7/2019 và ủy nhiệm chi số 43 ngày 10/7/2019.

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Trần Trọng T phải nộp 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:97/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về