Bản án 97/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 97/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 424/2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 103/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số: 90/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Kim P, sinh năm 1986; tạm trú: Số 12/8 khu phố T, phường A, thị xã D, tỉnh B. Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Lê Hữu L, sinh năm 1981; tạm trú: Số 12/8 khu phố T, phường A, thị xã D, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trần Kim P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Kim P và anh Lê Hữu L sau thời gian tìm hiểu nhau khoảng 03 tháng thì tự nguyện tiến đến hôn nhân, sống chung với nhau từ năm 2010, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh A theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 192, quyển số 01, cấp ngày 13/10/2010. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống tại thị xã D, tỉnh B cho đến nay. Vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc được khoảng 02 năm, đến khi sinh con được 06 tháng tuổi thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, không có sự đồng cảm, mỗi người một cuộc sống riêng nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Mặc dù chị P đã cố gắng hàn gắn gia đình nhưng không có kết quả, từ đó chị P và anh L sống ly thân với nhau cho đến nay nhưng anh L vẫn thường xuyên qua lại chăm sóc con. Nay chị P xác định không còn tình cảm với anh L nên yêu cầu được ly hôn với anh L.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có một con chung tên Lê Ngọc Kim N, sinh ngày 14/3/2012, hiện nay cháu N đang sống với mẹ nên chị P yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn đã được Toà án thông báo về việc thụ lý vụ án, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng không đến Toà án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố và không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D, tỉnh B tham gia phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của các đương sự: Ngày 03/7/2019, nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn anh Lê Hữu L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào các ngày 12/8/2019 và ngày 30/8/2019 nhưng anh Lê Hữu L vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Kim P và anh Lê Hữu L tự nguyện sống chung với nhau từ năm 2010, có đăng ký kết hôn tại xã M, huyện C, tỉnh A theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 192, quyển số 01, ngày 13/10/2010 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Chị P xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 02 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, không có sự đồng cảm, mỗi người một cuộc sống riêng nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Chị P và anh L đã sống ly thân với nhau từ cuối năm 2012 đến nay. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập anh L đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh L không có mặt.

[3] Xét thấy, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Việc anh L không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ để hàn gắn quan hệ hôn nhân với chị P cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó chị P yêu cầu ly hôn với anh L là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có cơ sở chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị P yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Lê Ngọc Kim N, sinh ngày 14/3/2012. Xét thấy, trong thời gian trước đây và hiện nay con chung do chị P trực tiếp nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt. Mặt khác, cháu N hiện còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ. Do đó, chị P yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị P không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con, xét đây là ý chí tự nguyện của chị nên Tòa án ghi nhận.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[6] Từ những phân tích nêu trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thị xã D, tỉnh B.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Kim P đối với anh Lê Hữu L về việc ly hôn.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Kim P được ly hôn với anh Lê Hữu L.

Về con chung: Giao con chung Lê Ngọc Kim N, sinh ngày 14/3/2012 cho chị Trần Kim P tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Trần Kim P không yêu cầu anh Lê Hữu L cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, chị Trần Kim P và anh Lê Hữu L đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Trường hợp anh Lê Hữu L lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc chị Trần Kim P nuôi con thì chị P có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh L theo quy định của pháp luật. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Trần Kim P không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Kim P phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghin đông) án phí về ly hôn đươc khấu trư hết vào tiền tạm ứng án phí đã nôp theo biên lai sô 0028234 ngày 20/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sư thị xã D, tỉnh B.

3. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2019/HNGĐ-ST ngày 30/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:97/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về