Bản án 97/2019/HNGĐ-ST ngày 14/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NGẠN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 97/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 14 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 298/2019/TLST - HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2019 Về việc “Tranh chấp Hôn nhân và Gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2019/QĐXX - ST ngày 11 tháng 10 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 88/2019/QĐST - HNGĐ ngày 29/20/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lục Thị K - Sinh năm 1990 ( Có mặt ).

2. Bị đơn: Anh Vi Văn L - Sinh năm 1989 (Vắng mặt).

Đều trú tại: Thôn C, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 25/6/2019, những lời khai tiếp theo và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Lục Thị K trình bày:

Chị và anh Vi Văn L kết hôn với nhau từ ngày 17/12/2008. Trước khi kết hôn anh chị có được tự nguyện tìm hiểu, không bị ai ép buộc, được gia đình tổ chức cưới theo phong tục địa phương và đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau ngày cưới, vợ chồng về chung sống cùng nhau ngay tại thôn C, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Ban đầu tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc.

Mâu thuẫn vợ chồng: Chị K xác định phát sinh từ đầu năm 2010 đến năm 2017 thì phát sinh căng thẳng, nguyên nhân do anh L mải mê cờ bạc, rượu chè không chịu làm ăn, chị có khuyên bảo nhưng anh L không nghe nên vợ chồng thường xuyên xảy ra tranh cãi. Vì vậy tuy sống chung nhà nhưng anh chị đã ly thân nhau từ đầu năm 2017 đến đầu năm 2019 chị đi làm công ty nên không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã căng thẳng, trầm trọng, mục đích hôn nhân hông đạt được nên chị vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn Vi Văn L.

* Về con chung: Chị K xác định vợ chồng có hai con chung là Vi Văn T, sinh ngày 08/01/2010 và Vi Thị Kim C, sinh ngày 07/3/2013. Hiện hai con chung đang ở với anh L. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả hai con chung, nhưng anh L cũng có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung nên chị nhận nuôi con thứ hai Vi Thị Kim C, sinh ngày 07/3/2013 và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

* Về tài sản chung, công nợ chung: Chị xác định vợ chồng không có tài sản chung, không liên quan vay nợ chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Tại Biên bản ghi lời khai ngày 15/7/2019 bị đơn anh Vi Văn L trình bày:

Anh và chị Lục Thị K kết hôn với nhau từ ngày 17/12/2008. Trước khi kết hôn anh chị có được tự nguyện tìm hiểu, không bị ai ép buộc, được gia đình tổ chức cưới theo phong tục địa phương và đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau ngày cưới, vợ chồng về chung sống cùng nhau ngay tại thôn C, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Ban đầu tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc.

Mâu thuẫn vợ chồng: Anh L xác định trong cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn, cãi cọ nhau nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không bảo ban được nhau trong việc làm ăn phát triển kinh tế gia đình và nuôi dạy con chung nên hai vợ chồng thường xuyên xảy ra tranh cãi. Nay chị K xin ly hôn anh, anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh muốn chị K suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con chung khôn lớn trưởng thành nên anh không đồng ý ly hôn với chị Lục Thị K. Nếu chị K nhất định xin ly hôn thì anh L đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Về con chung: Anh L xác định vợ chồng có hai con chung là Vi Văn T, sinh ngày 08/01/2010 và Vi Thị Kim C, sinh ngày 07/3/2013. Hiện hai con chung đang ở cùng anh chị. Sau khi ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu chị K cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

* Về tài sản chung, vay nợ chung: Anh L xác định vợ chồng có tài sản chung, không liên quan vay nợ chung. Nhưng anh đề nghị để vợ chồng tự thỏa thuận nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 30/7/2019 cháu Vi Văn T, sinh ngày 08/01/2010 là con chung của chị K và anh L trình bày Cháu tên Vi Văn T - Sinh ngày 08/01/2010, hiện cháu đang đang học lớp 4b trường tiểu học xã H, huyện L huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Cháu có biết việc bố mẹ cháu mâu thuẫn, nên cháu thường xuyên nhìn thấy bố mẹ cháu cãi nhau. Cháu yêu quý cả hai bố mẹ, cháu mong bố mẹ cháu chung sống với nhau để nuôi dạy cháu, nhưng nếu bố mẹ cháu không chung sống cùng nhau nữa thì cháu có nguyện vọng được ở với mẹ vì mẹ là người luôn chăm sóc, quan tâm về sinh hoạt và học tập của cháu, mong Tòa án chấp nhận nguyện vọng của cháu.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án và ý kiến về thủ tục tố tụng của Tòa án trong quá trình thụ lý cũng như giải quyết vụ án và sự chấp hành pháp luật của các đương sự theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

- Áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 28; Điều 35; 39; khoản 4 điều 147; Điều 271; Điều 273 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 3; 6; 26; 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lục Thị K được ly hôn với anh Vi Văn L.

- Về quan hệ con chung: Giao cho chị Lục Thị K nuôi con chung là Vi Thị Kim C, sinh ngày 07/3/2013, anh Vi Văn L nuôi dưỡng con chung là Vi Văn T, sinh ngày 08/01/2010. Sau khi ly hôn, chị K, anh L có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

- Về tài sản và công nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

- Về án phí: Chị Lục Thị K phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng vào phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Việc thụ lý và giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa các đương sự có nơi cư trú tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn là anh Vi Văn L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Lục Thị K và anh Vi Văn L là hợp pháp. Quá trình chung sống: chị K xác định phát sinh từ đầu năm 2010 đến năm 2017 thì phát sinh căng thẳng, nguyên nhân do anh L mải mê cờ bạc, rượu chè không chịu làm ăn, chị có khuyên bảo nhưng anh L không nghe nên vợ chồng thường xuyên xảy ra tranh cãi. Vì vậy tuy sống chung nhà nhưng anh chị đã ly thân nhau từ đầu năm 2017 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã căng thẳng, trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị vẫn giữ nguyên yêu cầu đề nghị Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn giải quyết cho chị và anh Vi Văn L được ly hôn nhau.

Anh L xác định trong cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn, cãi cọ nhau nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không bảo ban được nhau trong việc làm ăn phát triển kinh tế gia đình và nuôi dạy con chung nên hai vợ chồng thường xuyên xảy ra tranh cãi. Nay chị K xin ly hôn anh, anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh muốn chị K suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con chung khôn lớn trưởng thành nên anh không đồng ý ly hôn với chị Lục Thị K. Nếu chị K nhất định xin ly hôn thì anh L đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Vì vậy Tòa án đã tiến hành hòa giải về quan hệ hôn nhân giữa chị K và anh L, nhưng anh L không đến Tòa án theo giấy báo. Nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa hôm nay chị K xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị không thể chung sống cùng anh L được nữa nên chị vẫn giữ nguyên yêu cầu đề nghị Hội đồng xét xử cho chị được ly hôn với anh Vi Văn L. Xét chị K và anh L trong cuộc sống có phát sinh mâu thuẫn và thường xuyên xảy ra cãi cọ nhau, nay không ai quan tâm đến ai. Chị K xin ly hôn, anh L xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn anh muốn chị K suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con chung khôn lớn trưởng thành nên anh không đồng ý ly hôn với chị Lục Thị K. Nếu chị K nhất định xin ly hôn thì anh L đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị K và anh L đã căng thẳng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị K xin ly hôn anh L là phù hợp với quy định tại khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Cần cho chị Lục Thị K được ly hôn với anh Vi Văn L.

- Về con chung: Chị Lục Thị K và anh Vi Văn L đều xác định vợ chồng có 2 con chung là Vi Văn T, sinh ngày 08/01/2010 và Vi Thị Kim C, sinh ngày 07/3/2013. Do con lớn của anh chị là Vi Văn T đã trên bẩy tuổi và có nguyện vọng ở với chị K, con thứ hai còn nhỏ. Sau khi ly hôn, anh chị đều có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung và chị K nhận trách nhiệm nuôi dưỡng con chung là Vi Thị Kim C, sinh ngày 07/3/2013. Nên để đảm bảo quyền lợi của con chung Hội đồng xét xử giao cho chị K nuôi dưỡng con chung là Vi Thị Kim C, sinh ngày 07/3/2013 Giao cho anh L nuôi dưỡng con chung là Vi Văn T, sinh ngày 08/01/2010 là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

Sau khi ly hôn, chị K, anh L có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Lục Thị K và anh Vi Văn L đều xác định vợ chồng có tài sản chung, không liên quan vay nợ chung, nhưng cùng không đề nghị Tòa án giải quyết. Vì vậy Tòa án không đặt ra xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Chị Lục Thị K là dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên không phải chịu án phí.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Các Điều 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 4 điều 147; Điều 271; Điều 273 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lục Thị K.

1. Cho chị Lục Thị K được ly hôn với anh Vi Văn L.

2. Về con chung: Giao cho chị Lục Thị K nuôi dưỡng con chung là Vi Thị Kim C, sinh ngày 07/3/2013. Giao cho anh L nuôi dưỡng con chung là Vi Văn T, sinh ngày 08/01/2010. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào. Sau khi ly hôn, chị K, anh L có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản và công nợ chung của chị K, anh L: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Miễn án phí ly hôn sơ thẩm cho chị Lục Thị K. Hoàn trả chị K 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng chẵn) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2018/0005578 ngày 15/7/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Ngạn.

Đương sự có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án xét xử vắng mặt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 97/2019/HNGĐ-ST ngày 14/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:97/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về