Bản án 970/2019/DS-PT ngày 31/10/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 970/2019/DS-PT NGÀY 31/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29/7/2019, 31/7/2019 và 31/10/2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 314/DSPT ngày 11/7/2018, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 190/2018/DS-ST ngày 29/05/2018 của Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố H bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4616/2019/QĐ-PT ngày 03/10/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

1. Ông Nguyễn Văn X, sinh năm 1964 (vắng mặt).

2. Bà Lê Thị Ngọc T, sinh năm 1968 (vắng mặt).

Địa chỉ: số nhà M Tỉnh lộ B, Tổ M, ấp GC, xã AT, huyện C, Thành phố H.

Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1963

Địa chỉ: số K đường NO, Khu phố H, thị trấn C, huyện Củ Chi, Thành phố H. (vắng mặt)

Bị Đơn:

1. Ông Phạm Hồng S, sinh năm 1981 (vắng mặt)

Địa chỉ: số M Tỉnh lộ b, Tổ b, ấp XT, xã AT, huyện C, Thành phố H.

2. Bà Phạm Trần Ngọc Hạ, sinh năm 1983 (vắng mặt)

Địa chỉ: số M Tỉnh lộ b, Tổ b, ấp XT, xã AT, huyện C, Thành phố H.

Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Bà Đỗ Huyền Th (xin vắng mặt).

Địa chỉ: số C Đường số S, Khu phố N, phường LC, quận TĐ, Thành phố H.

Ni bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Thụ (có mặt)

Địa chỉ: số 09 Đường số 6, Khu phố 5, phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 05 tháng 4 năm 2017 của ông Nguyễn Văn X, bà Lê Thị Ngọc T, có ông Nguyễn Thanh L là người đại diện của nguyên đơn trình bày:

Ngày 20/12/2016, bà Phạm Trần Ngọc Hạ cùng chồng ông Phạm Hồng S có vay của vợ chồng bà Lê Thị Ngọc T, ông Nguyễn Văn X số tiền 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng. Hai bên có lập giấy cam kết vay tiền, thỏa thuận lãi suất là 3%/01 (một) tháng, thời hạn vay là 03 (ba) tháng. Để đảm bảo khoản vay, vợ chồng ông S và bà Hạ có đưa bà T giữ bản chính giấy đăng ký xe ô tô biển số: 54Z-5645 do ông Phạm Hồng S đứng tên, tuy nhiên sau đó do nhu cầu sử dụng nên bà T đã trả lại giấy đăng ký xe cho vợ chồng ông S, bà Hạ. Mục đích vay để làm vốn buôn bán làm ăn và xoay sở trong gia đình (việc nội dung giấy cam kết vay tiền thể hiện mượn tiền để mua xe biển số đăng ký 54Z-5645 ông Phạm Hồng S đứng tên là do ông X, bà T là người dân không hiểu trong cách dùng câu chữ nên mới ghi như vậy, đáng lẽ phải ghi là cầm giữ giấy đăng ký xe ô tô 54Z-5645 mới đúng). Đến thời hạn trả nợ cho đến nay, vợ chồng ông S, bà Hạ không trả tiền gốc và tiền lãi như đã cam kết. Ông X, Bà T yêu cầu Tòa án buộc ông Phạm Hồng S, bà Phạm Trần Ngọc Hạ trả 400.000.000 (bốn trăm triệu) đồng tiền vốn vay, yêu cầu trả làm một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Nguyên đơn không yêu cầu tính tiền lãi trên số tiền vốn vay.

Bị đơn ông Phạm Hồng S và bà Phạm Trần Ngọc Hạ trình bày: Ông S, bà Hạ xác nhận trước đây vào ngày 20/12/2016, vợ chồng ông S, bà Hạ có vay của ông Nguyễn Văn X, bà Lê Thị Ngọc T số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng. Đến khoảng ngày 25/12/2016, ông S và bà Hạ đã trả cho bà T số tiền 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng. Ngoài ra, bà Hạ xác nhận vào giữa năm 2016, bà Hạ có vay riêng nhiều lần của bà T (bà Hạ không nhớ chính xác số lần vay cũng như số tiền vay). Mục đích bà Hạ vay để trả tiền nợ hụi cho bà T vì giữa bà Hạ và bà T có chơi hụi với nhau. Ông S, bà Hạ xác nhận chữ ký và chữ viết trong Giấy cam kết vay tiền ngày 20/12/2016 do nguyên đơn giao nộp cho Tòa án là của ông Phạm Hồng S, bà Phạm Trần Ngọc Hạ, nhưng ông S và bà Hạ không đồng ý vì cho rằng nội dung ghi trong giấy cam kết vay tiền về việc ông bà mượn số tiền 400.000.000 (Bốn trăm triệu) đồng là không đúng, tại thời điểm ông S và bà Hạ ký thì giấy cam kết vay tiền nội dung để trống chưa ghi, việc giấy cam kết vay tiền thể hiện ông S, bà Hạ vay 400.000.000 (Bốn trăm triệu) đồng là do bà T tự ghi, vợ chồng ông S, Hạnh không biết và thực tế không vay số tiền này. Qua đối chiếu quyển sổ do bà T ghi, ông S và bà Hạ xác nhận đến nay chỉ còn nợ của bà T số tiền 244.400.000 (Hai trăm bốn mươi bốn triệu bốn trăm nghìn) đồng. Ông S cho biết đối với những số tiền bà Hạ vay riêng của bà T mặc dù ông S không biết, nhưng ông S đồng ý cùng với bà Hạ sẽ có trách nhiệm trả cho bà T. Ông S, bà Hạ đề nghị được trả trước 10.000.000 (Mười triệu) đồng, đối với số tiền còn lại đề nghị được trả dần mỗi tháng 2.000.000 (Hai triệu) đồng cho đến khi trả xong số nợ trên.

Bản án dân sự sơ thẩm số 190/2018/DS-ST ngày 29/5/2018 của Tòa án nhân Huyện C,Thành phố H quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Văn X, bà Lê Thị Ngọc T.

1.1. Chấm dứt Giấy cam kết vay tiền ngày 20/12/2016 giữa ông Nguyễn Văn X, bà Lê Thị Ngọc Th (bên cho vay) và ông Phạm Hồng S, bà Phạm Trần Ngọc Hạ (bên vay).

1.2. Buộc ông Phạm Hồng S, bà Phạm Trần Ngọc Hạ phải thanh toán trả ông Nguyễn Văn X, bà Lê Thị Ngọc T số tiền nợ gốc 400.000.000 (Bốn trăm triệu) đồng. Thực hiện làm 01 (một) lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành của đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 07/06/2018, Bà Phạm Trần Ngọc Hạ kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 190/2018/DS-ST ngày 29/05/2018.

Ngày 27/06/2018, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H ra quyết định kháng nghị số 32/QĐKNPT-VKS-DS ngày 27/6/2018.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; bị đơn không rút đơn kháng cáo. Các đương sự không tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn vắng mặt không có lý do chính đáng trong khi Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ theo quy định pháp luật.

- Người đại diện theo ủy quyền bị đơn bà Đỗ Huyền Th có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn – ông Nguyễn Hữu Thụ: yêu cầu Tòa án tiến hành giám định băng ghi âm đoạn hội thoại giữa bà Hạ và bà T vào ngày 20/09/2017 và đối chất giữa hai bên. Giữ nguyên nội dung trong đơn kháng cáo ngày 07/6/2018, yêu cầu Tòa án hủy bản án sơ thẩm số 190/2018/DS-ST ngày 29/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện C.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm Phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đều chấp hành và tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 hủy bản án sơ thẩm số 190/2018/DS-ST ngày 29/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về hình thức: Đơn kháng cáo của bà Phạm Trần Ngọc Hạ làm đúng hình thức, trong hạn luật định và đã nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật nên được công nhận về mặt hình thức.

Về nội dung kháng cáo:

[1] Xét nội dung đơn kháng cáo của bị đơn nêu một số căn cứ để yêu cầu Hội đồng xét xử huỷ bản án sơ thẩm gồm có các nội dung sau:

- Bị đơn cho rằng ghi nhận của bản án sơ thẩm về việc tiến hành hoà giải và việc bị đơn thay đổi ý kiến là không đúng. Xét thấy, việc hoà giải được thẩm phán tiến hành như một trình tự trong quá trình tố tụng, có lập biên bản có chữ ký của các bên, sau đó bị đơn thay đổi ý kiến và Thẩm phán không ra quyết định công nhận hoà giải thành, nên việc ghi nhận lại trong bản án sơ thẩm là đúng. Mặt khác, việc hoà giải thành đã có ý kiến thay đổi của bị đơn nên toà án đã mở phiên toà xét xử là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung, bị đơn cho rằng việc đánh giá chứng cứ của Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng và không khách quan, nhưng không đưa ra chứng cứ gì chứng minh cho ý kiến của mình. Nhận định để đánh giá chứng cứ của Hội đồng xét xử sơ thẩm cũng như việc sử dụng các chứng cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án để quyết định chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ và hợp pháp.

- Tại cấp phúc thẩm, ngày 07 tháng 11 năm 2018, ngày 18 tháng 6 năm 2019 và ngày 08 tháng 8 năm 2019, người đại diện theo ủy quyền bị đơn bà Đỗ Huyền Th làm đơn yêu cầu Giám định tuổi mực trong giấy cam kết, đơn yêu cầu chuyển qua hình sự do có dấu hiệu cho vay nặng lãi, đơn tiến hành đối chất và giám định ghi âm, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại cấp sơ thẩm phía bị đơn không có bất cứ yêu cầu gì về việc giám định liên quan đến tuổi mực của giấy cam kết, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chuyển hồ sơ xem xét xử lý hình sự, không cần thiết phải đối chất và giám định ghi âm vì toàn bộ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, lời khai của các bên đã đầy đủ. Do vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn.

[2] Xét kháng nghị số 32/QĐKNPT-VKS-DS ngày 27/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H cho rằng toà án cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng về chứng minh và chứng cứ, Hội đồng xét xử xét thấy:

- Viện kiểm sát xác định toà án sơ thẩm tiến hành đối chất giữa đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn và bị đơn là không đúng quy định tại khoản 1 Điều 100 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại khoản 19 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự về Quyền, nghĩa vụ của đương sự ghi nhận đương sự có quyền, nghĩa vụ: “được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng”; tại khoản 1 Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền”; tại khoản 2 Điều 86 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung uỷ quyền”. Căn cứ nội dung uỷ quyền ngày 11 tháng 5 năm 2017, ông Nguyễn Thanh L được uỷ quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn ông Nguyễn Văn X, bà Lê Thị Ngọc T nên việc đối chất được người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn tham gia theo đúng uỷ quyền là phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Viện kiểm sát xác định có mâu thuẫn trong việc xác định chứng cứ, trường hợp này cần phải trưng cầu giám định nhưng cấp sơ thẩm không tiến hành, vi phạm khoản 2 Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với nội dung này, Viện kiểm sát không xác định rõ mâu thuẫn trong việc xác định chứng cứ là những chứng cứ nào và căn cứ để Toà án xét thấy cần thiết tự mình ra quyết định trưng cầu giám định. Trong vụ án, các chứng cứ mà các đương sự đưa ra không được bên kia thừa nhận gồm:

Giấy cam kết vay tiền ngày 20/12/2016 do nguyên đơn giao nộp, phía bị đơn ông Phạm Hồng S, bà Phạm Trần Ngọc Hạ thừa nhận chữ ký và chữ viết họ tên trong giấy cam kết vay tiền nêu trên là của bị đơn, chỉ không thừa nhận các nội dung viết trên giấy cam kết vay tiền, hai bên đương sự trong quá trình giải quyết sơ thẩm không đưa ra yêu cầu gì về việc giám định nên chứng cứ không phải chứng minh về tính xác thực, riêng về nội dung thì Toà án cần đánh giá dựa vào diễn biến khách quan của vụ án.

Đối với file ghi âm do bị đơn giao nộp, ghi lại cuộc nói chuyện qua điện thoại giữa bà Phạm Trần Ngọc Hạ và bà Lê Thị Ngọc T liên quan đến khoản vay, chơi hụi giữa bà Hạ và bà T, phía nguyên đơn không thừa nhận và Toà án sơ thẩm có văn bản yêu cầu bị đơn bổ sung tài liệu, chứng cứ chứng minh. Phía bị đơn và người bảo vệ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng đây là chứng cứ không phải chứng minh nên không yêu cầu giám định. Riêng đối với quyển sổ ghi chép do bị đơn giao nộp, phía nguyên đơn cũng không có ý kiến phản đối với chữ viết của nguyên đơn trên sổ ghi chép nên không cần chứng minh tính xác thực của chứng cứ, về nội dung Toà án cấp sơ thẩm cũng đã đánh giá chứng cứ. Như vậy, hai nội dung mà Viện kiểm sát cho rằng Toà án cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng là không có cơ sở.

Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, không chấp nhận kháng nghị của Viện kiệm sát Thành phố H nên giữ nguyên án sơ thẩm.

Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo của bà Hạ không được chấp nhận và bản án sơ thẩm được giữ nguyên nên người kháng cáo phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 195; khoản 2 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 235; điểm c khoản 1 Điều 238; Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 264 Bộ luật dân sự năm 1995;

Căn cứ Khoản 1 Điều 11 Nghị định 70/CP của Chính phủ qui định về án phí, lệ phí Tòa án;

1/ Không chấp nhận kháng cáo của Bà Phạm Trần Ngọc Hạ.

2/ Không chấp nhận kháng nghị số 32/QĐKNPT-VKS-DS ngày 27/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

3/ Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 190 /2018/DS-ST ngày 29/05/2018 của Tòa án nhân dân Huyện C, Thành phố H.

Tuyên Xử:

3.1/ Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Văn X, bà Lê Thị Ngọc T.

3.2/ Chấm dứt Giấy cam kết vay tiền ngày 20/12/2016 giữa ông Nguyễn Văn X, bà Lê Thị Ngọc T (bên cho vay) và ông Phạm Hồng S, bà Phạm Trần Ngọc Hạ (bên vay).

3.3/ Buộc ông Phạm Hồng S, bà Phạm Trần Ngọc Hạ phải thanh toán trả ông Nguyễn Văn X, bà Lê Thị Ngọc T số tiền nợ gốc 400.000.000 (Bốn trăm triệu) đồng. Thực hiện một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại các Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. Các bên thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Về án phí:

4.1. Ông Phạm Hồng S, bà Phạm Trần Ngọc Hạ phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng. Ông S, bà Hạ chưa nộp án phí.

4.2. Ông Nguyễn Văn X, bà Lê Thị Ngọc T được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 10.000.000 (mười triệu) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0006522 ngày 27 tháng 4 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.

4.3 Án phí dân sự phúc thẩm: bà Phạm Trần Ngọc Hạ phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng đã nộp theo biên lai thu số 0032671 ngày 7/6/2018 Chi cục thi hành án dân sự huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, bà Phạm Trần Ngọc Hạ đã nộp đủ tiền án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

342
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 970/2019/DS-PT ngày 31/10/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:970/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về