Bản án 96/2021/HS-ST ngày 21/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 96/2021/HS-ST NGÀY 21/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 21 tháng 5 năm 2021 tại Phòng xét xử Hình sự thuộc Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số 104/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn Hải L, sinh năm 2001, tại Thành phố H; giới tính: Nam; nơi ĐKHKTT: Thôn S, xã T, huyện B, tỉnh Th; chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; trình độ học vấn: Không biết chữ; nghề nghiệp: Làm thuê; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; họ và tên cha: Lê Văn H, sinh năm (không rõ); họ và tên mẹ: Tiêu Thị B, sinh năm 1975; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 08/01/2021, bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Triệu Tuấn Đ, sinh năm: 1975; nơi cư trú: 17/8 khu phố K, phường A, quận T, Thành phố H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Quá trình điều tra xác định như sau: Lê Văn Hải L là người nghiện ma túy khoảng một năm. Do hết ma túy sử dụng nên khoảng 19 giờ ngày 04/01/2012, L điều khiển xe mô tô biển số 54N1-9805 đến khu vực Quốc lộ 1A thuộc xã T, huyện B mua của một người đàn ông (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua ma túy, L cất giấu gói ma túy vào túi quần với mục đích là để sử dụng; tuy nhiên ngày 06/01/2021, L được một số bạn bè ở ngoài xã hội cho sử dụng ma túy nên để lại gói ma túy này sử dụng sau. Khoảng 23 giờ 20 phút ngày 08/01/2021, khi L đang điều khiển xe mô tô nêu trên đến trước địa chỉ C4/31, ấp 3, xã T, huyện B thì bị Tổ 4-E21 Trung đoàn cảnh sát cơ động B trên đường tuần tra nghi vấn kiểm tra phát hiện L đang cất giấu 01 gói ma túy trong túi quần phía trước bên phải. Vụ việc được lập Biên bắt bắt người có hành vi phạm tội quả tang, sau đó chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B điều tra giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Lê Văn Hải L đã khai nhận toàn bộ nội dung nêu trên đồng thời khai nhận trước khi bị bắt L đã mua ma túy của người đàn ông không rõ lai lịch nêu trên 03 lần, mỗi lần là 200.000 đồng về sử dụng tại các đoạn đường vắng, không nhớ địa điểm.

Tại bản Kết luận giám định số 501/KLGĐ-MT ngày 15/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H kết luận:

Gói tinh thể không màu ký hiệu mẫu m, thu giữ của Lê Văn Hải L cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1589g, loại Methamphetamine (sau giám định còn lại là 0,1083g).

Vật chứng vụ án gồm: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1589g, loại Methamphetamine (sau giám định còn lại là 0,1083g); 01 điện thoại di động hiệu OPPO; 01 xe mô tô biển số 54N1- 9805, số khung: RLHHC12248Y033238, số máy: HC12F-0548820; 01 bao thuốc lá hiệu Jet và số tiền 51.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 103/CT-VKS ngày 07/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Thành phố H đã truy tố bị cáo Lê Văn Hải L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn Hải L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố bị cáo. Lời nói sau cùng bị cáo không tranh luận và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị:

Xử phạt bị cáo Lê Văn Hải L từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), phạt bổ sung số tiền từ 05 triệu đồng đến 10 triệu đồng, xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Văn Hải L tại tòa là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra (BL: 64 – 77); phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vụ án còn được chứng minh qua hoạt động điều tra như biên bản lấy lời khai, thu giữ vật chứng, kết quả giám định vật chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang ... Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 08/01/2021, bị cáo Lê Văn Hải L đã có hành vi tàng trữ ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 0,1589g, loại Methamphetamine (Theo Kết luận giám định số 501/KLGĐ-MT ngày 15/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an H) với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang vào lúc 23 giờ 20 phút cùng ngày tại trước nhà số C4/31, ấp 3, xã T, huyện B.

[3] Với những tình tiết được chứng minh tại phiên toà, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Văn Hải L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); nên Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo với tội danh nêu trên là đúng người, đúng tội.

[4] Tội phạm do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, mặc dù bị cáo biết rõ ma túy là loại biệt dược được Nhà nước thống nhất quản lý hết sức chặt chẽ, mọi hành vi liên quan đến ma túy từng mức độ sẽ bị xử lý hình sự. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật. Song chỉ vì muốn có ma tuý sử dụng cho bản thân nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là gây mất an ninh, trật tự tại địa phương là tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó, khi lượng hình cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian để bị cáo từ bỏ ma túy, sau này tái hòa nhập cộng đồng làm người có ích cho bản thân, gia đình và xã hội cũng như phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ rõ ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[6] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đang tiếp tục truy xét, khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau.

[7] Bị cáo khai mua ma túy của người đàn ông không rõ lai lịch nhiều lần để sử dụng, tuy nhiên chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo ngoài ra không có chứng cứ nào khác để chứng minh vấn đề này nên chưa đủ căn cứ để xử lý bị cáo phạm tội thuộc trường hợp 02 lần trở lên.

[8] Về xử lý vật chứng vụ án:

Đối với 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1589g, loại Methamphetamine (sau giám định còn lại là 0,1083g); 01 bao thuốc lá hiệu Jet, đây là các vật cấm tàng trữ, không có giá trị sẽ tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 01 xe mô tô biển số 54N1-9805, số khung: RLHHC12248Y033238, số máy: HC12F-0548820, bị cáo khai do người bạn tên Ph (không rõ lai lịch) đưa cho bị cáo sử dụng. Qua xác minh thì xe trên do ông Triệu Tuấn Đ đứng tên chủ sở hữu, ông Đạt khai nhận bán xe này cho một người không rõ lai lịch vào năm 2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã làm thủ tục đăng báo nhưng đến nay không có ai đến liên hệ nhận xe. Bị cáo dùng xe trên và 01 điện thoại di động hiệu OPPO làm phương tiện phạm tội, Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với số tiền 51.000 đồng, qua điều tra xác định đây là tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án, Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho bị cáo mà cần giữ lại để đảm bảo thi hành án.

[9] Ở dạng tội phạm này ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền nên cần áp dụng Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) phạt bị cáo một số tiền nhất định để nộp vào ngân sách Nhà nước là phù hợp.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c Khoản 1, Khoản 5 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ vào các điểm a, c Khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Lê Văn Hải L 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày 08/01/2021.

Phạt bổ sung bị cáo Lê Văn Hải L số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước.

Việc bị cáo nộp số tiền phạt nêu trên phải được thực hiện ngay sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật.

Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1589g, loại Methamphetamine (sau giám định còn lại là 0,1083g); 01 bao thuốc lá hiệu Jet.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô biển số 54N1-9805, số khung: RLHHC12248Y033238, số máy: HC12F-0548820 và 01 điện thoại di động hiệu OPPO.

Tạm giữ số tiền 51.000 đồng thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

(các vật chứng này hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao, nhận vật chứng lập vào 10 giờ 40 phút ngày 04 tháng 5 năm 2021 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bình Chánh, riêng số tiền 51.000 đồng đang tạm giữ tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Nam Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên lai nộp tiền ngày 19/3/2021).

Về án phí: Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, tính kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính kể từ ngày nhận Bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2021/HS-ST ngày 21/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:96/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về