Bản án 96/2021/HS-ST ngày 17/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 96/2021/HS-ST NGÀY 17/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 17 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 94/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Đức T, sinh ngày 08 tháng 9 năm 1968 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Đường P, phường V, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Đức U (đã chết) và bà Trần Thị T; có vợ là Nguyễn Thị T (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2000; tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 247 ngày 14/6/2000, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 05 năm tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân; Bản án hình sự sơ thẩm số 215/2006/HS-ST ngày 29/9/2006, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì xử phạt 48 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2014/HSST ngày 02/4/2014, Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái xử phạt 06 năm tù về tội Trộm cắp tài sản; tiền sự: Không; nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 415/STHS ngày 23/11/1988, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, 24 tháng thử thách về tội Cướp giật tài sản của công dân; Bản án hình sự sơ thẩm số 74 ngày 13/7/1990, Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân. Tổng hợp hình phạt chung với Bản án số 415/STHS ngày 23/11/1988 là 27 tháng tù; Bản án hình sự sơ thẩm số 318 ngày 26/9/1992, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân; Bản án hình sự sơ thẩm số 350 ngày 30/9/1995, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân; bị bắt, tạm giữ ngày 06/01/2021, tạm giam ngày 07/01/2021; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân nghiện ma túy nên T thường mua ma túy về sử dụng. Khoảng 11 giờ ngày 06/01/2021, T đi đến khu vực đường tàu Cầu Đất tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, T gặp và hỏi mua của 01 người phụ nữ không quen biết 200.000 đồng ma túy đá. Người này đồng ý, nhận tiền và đưa lại cho T gói nilon kích thước khoảng 1x1,5cm bên trong chứa ma túy đá. T cất ma túy vào túi áo khoác phía trước bên phải đang mặc rồi đi tìm nơi sử dụng ma túy, khi đến trước cổng Sân vận động Lạch Tray, thành phố Hải Phòng thì bị lực lượng công an bắt quả tang cùng vật chứng như trên.

Kết luận giám định số 112/KLGĐ ngày 07/01/2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng thu của T là ma túy, có khối lượng 0,41 gam, là loại Methamphetamine Về vật chứng: 01 bì thư niêm phong số 112/MT/PC09 chứa ma túy và vỏ bao bì còn lại sau giám định đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền.

Tại bản Cáo trạng số 94/CT-VKS ngày 28/5/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Phạm Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi của mình như nội dung Cáo trạng và xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Đức T mức án từ 07 năm đến 08 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng, phạm tội không vì mục đích vụ lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 phong bì dấu niêm phong số 112/MT/PC09 của Phòng kỹ thuật Hình sự, công an thành phố Hải Phòng.

Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Phạm Đức T chưa xác minh được lai lịch, địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ có căn cứ sẽ xử lý sau.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đư ợc tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 06/01/2021 bị cáo Phạm Đức T đã có hành vi cất giữ trái phép 0,41 gam Methamphetamine trong người để sử dụng. Tại thời điểm thực hiện hành vi trên, bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo đã có 04 ti ền án đã đư ợc xóa và 03 tiền án chưa được xóa nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Như vậy, hành vi của bị cáo Phạm Đức T đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Việc truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đối với bị cáo về tội danh cũng như đi ều luật áp dụng là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm chính sách quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với các chất ma túy, góp phần làm suy giảm sức khỏe của bản thân và cộng đồng, còn xâm phạm trật tự trị an xã hội. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như đáp ứng yêu cầu ph òng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo vì quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo:

[6] Xét bị cáo không có tài sản riêng, không có nơi cư trú và thu nhập ổn định, phạm tội không vì mục đích vụ lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

- Về xử lý vật chứng:

[7] Do chất ma túy là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 112/MT/PC09 chứa chất ma túy còn lại sau giám định.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[10] Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Phạm Đức T chưa xác minh được lai lịch, địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ có căn cứ sẽ xử lý sau.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phạm Đức T 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06 tháng 01 năm 2021.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 112/MT/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hải Phòng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31 tháng 5 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Phạm Đức T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Phạm Đức T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2021/HS-ST ngày 17/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:96/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về