TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 96/2020/HS-ST NGÀY 14/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 80/2020/HSST ngày 19 tháng 6 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2020/QĐXXST- HS ngày 30/6/2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Ngọc T , sinh ngày: 30/10/1981 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Khu X, phường Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B, Nguyễn Thị H; có vợ là Hoàng Thị Lvà có 02 con (con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2019); Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 11/12/2003, Công an thị xã Vĩnh Yên (nay là thành phố Vĩnh Yên), tỉnh Vĩnh Phúc, xử phạt hành chính Nguyễn Ngọc T số tiền 1.050.000,đ về hành vi sử dụng chất ma tuý. Ngày 24/12/2003, Công an thị xã Vĩnh Yên lập biên bản không thực hiện được quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Ngọc T , xác định Tiến không có tài sản, không có khả năng thi hành án; ngày 04/3/2004, Chủ tịch uỷ ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên ra Quyết định số 168/QĐ-CT về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với Nguyễn Ngọc T , thời hạn 24 tháng. Ngày 06/10/2005, Chủ tịch uỷ ban nhân dân thị xã Vĩnh Yên ra Quyết định miễn chấp hành thời gian thi hành quyết định còn lại đối với Nguyễn Ngọc T , kể từ ngày 07/10/2005; tại Bản án số 59/2007/HSST ngày 17/09/2007, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Nguyễn Ngọc T 12 tháng tù, về tội Sử dụng trái phép chất ma tuý. Chấp hành xong hình phạt trở về địa phương ngày 07/11/2008; ngày 15/12/2009, Uỷ ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên ra Quyết định số 1919/QĐ-CTUBND về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc đối với Nguyễn Ngọc T , thời hạn 24 tháng. Ngày 16/12/2011, chấp hành xong trở về địa phương; ngày 21/11/2018, Công an phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Ngọc T , số tiền 1.500.000,đ về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý, chấp hành xong ngày 22/11/2018. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/03/2020 đến nay (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 20 phút ngày 18/3/2020, Nguyễn Ngọc T đến khu vực giếng Ga, thuộc địa phận khu hành chính 10, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, mục đích tìm mua ma tuý heroin để sử dụng cho bản thân. Khi đi đến khu vực Giếng Ga, Tiến gặp 01 người phụ nữ không quen biết đang đứng ở ven đường, đoán người này có ma tuý heroin bán nên Tiến đã hỏi và mua 01 gói ma túy hêrôin với giá 200.000,đ. Sau khi mua được ma túy, Tiến cầm gói ma túy ở tay phải và đi nhờ xe máy của một người nam giới đi đường (không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ) đến khu vực đường Nguyễn Tất Thành thuộc thôn Đậu, xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc thì Tiến xuống xe, rồi một mình đi bộ tìm nơi thuận lợi để sử dụng ma túy. Tiến vừa đi được một đoạn đường thì bị tổ tuần tra công an xã Định Trung kiểm tra hành chính, phát hiện thu giữ tại tay phải của Tiến 01 gói giấy nhỏ, bên trong có chứa chất bột màu trắng (niêm phong trong phong bì kí hiệu A1), Tiến khai nhận là ma túy heroin Tiến vừa mua được với giá 200.000,đ để sử dụng cho bản thân.
Cùng ngày, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định trưng cầu giám định số 129, yêu cầu Tổ chức giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định đối với 01 gói giấy bên trong chứa cục bột màu trắng được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu A1.
Tại Kết luận giám định số 571A/KLGĐ ngày 21/03/2020 của Phòng kỹ hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma tuý lẫn tạp chất, loại heroin. Heroin là chất ma tuý nằm ở STT 09, danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,5779g (Không phảy năm bảy bảy chín gam, không kể bao bì). Khối lượng Heroin trong 0,5779g mẫu là 0,2243g (Không phảy hai hai bốn ba gam). Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định gồm: A1 = 0,5353gam mẫu và toàn bộ bao gói, được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả”.
Cáo trạng số 91/CT-VKSTP.VY ngày 19/6/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ngọc T khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù; áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,5353gam ma túy (Heroin) và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả” hoàn lại sau giám định; không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Ngọc T tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng đã thu giữ và kết luận giám định cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 09 giờ ngày 18/03/2020, Tổ công tác Công an xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, đang làm nhiệm vụ tại khu vực xóm Đậu, xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên thì phát hiện Nguyễn Ngọc T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mục đích để sử dụng cho bản thân. Thu giữ tại tay phải của Tiến 01 gói giấy nhỏ bên trong chứa 0,5779g chất bột, cục màu trắng, kết quả giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Heroin, trọng lượng Heroin trong mẫu vật giám định là 0,2243g.
Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Ngọc T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), có khung hình phạt đến 05 năm tù.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Ngọc T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý xã hội, chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, làm nhân dân lên án và bất bình. Do đó cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
Bị cáo phạm tội theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt tù đến 05 năm tù nên theo quy định của Bộ luật Hình sự thuộc tội phạm nghiêm trọng.
Trước khi phạm tội bị cáo đã từng bị xử về tội “Sử dụng trái phép chất ma túy”, rất nhiều lần bị đưa vào cai nghiện bắt buộc và bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Mặc dù không bị tính là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu bị cáo không lấy đó làm bài học, tu sửa rèn luyện bản thân để cai nghiện mà tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định để giáo dục cải tạo bị cáo sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đó là: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo” để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng.
[2] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo Tiến không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định, nên Hội đồng xét xử không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.
[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[4] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và hành vi liên quan trong vụ án:
Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Tiến, quá trình điều tra Tiến khai nhận: khoảng 09 giờ ngày 18/03/2020, do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên Tiến một mình đi đến khu vực Giếng Ga, khu hành chính 10, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên để tìm mua ma tuý. Tại đây, Tiến gặp và mua được của một người phụ nữ Tiến không biết cụ thể nhân thân, lai lịch người này là ai, ở đâu 01 gói ma tuý heroin với giá 200.000,đ. Người này có đặc điểm khoảng 40 tuổi, cao 1m55, dáng người to béo. Tiến hành xác minh tại Công an phường Đống Đa về người phụ nữ có đặc điểm nhận dạng theo mô tả của Tiến, kết quả chưa xác định được người này là ai, ở đâu. Do vậy, Cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý.
Đối với người nam giới cho Nguyễn Ngọc T đi nhờ xe từ khu vực Giếng Ga, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên đến đường Nguyễn Tất Thành, thuộc xóm Đậu, xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, quá trình điều tra Tiến khai không biết người này là ai, khi xin đi nhờ xe máy Tiến cũng không nói cho người này biết Tiến có ma tuý và đang đi tìm nơi để sử dụng ma tuý. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
[5] Về Vật chứng của vụ án: Đối với 0,5353gam ma túy (Heroin) và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả” hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo, (ngày 18/3/2020).
Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy 0,5353gam ma túy (Heroin) và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả” hoàn lại sau giám định (Đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/6/2020).
Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Nguyễn Ngọc T phải chịu 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 96/2020/HS-ST ngày 14/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 96/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về