Bản án 96/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội trộm cắp tài sản  

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 96/2019/HS-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN   

Ngày 26 tháng 4 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 101/2019/HSST ngày 10/4/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2019/HSST-QĐ ngày 16/4/2019 đối với bị cáo:

NGUYN HUY C, sinh năm 1990; ĐKHKTT: xã Y, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá:12/12; con ông Nguyễn Huy H (c); con bà Nguyễn Thị T; Danh chỉ bản: 000000153, lập ngày 22/01/2019, Công an quận Cầu Giấy; Tiền án, tiền sự: không; Vụ án này, bị cáo bắt quả tang ngày 22/01/2019, ngày 25/01/2019, Hủy bỏ tạm giữ, thay đổi biện pháp ngăn chặn, hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

-Người bị hại: anh Trần Văn D, sinh năm 1999; HKTT: phường T, Thành phố N, tỉnh Thái Nguyên.(vắng mặt).

-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: anh Nguyễn Đăng Đ, sinh năm 1990; HKTT; xã Y, huyện Đ, Hà Nội.(vắng mặt).

-Người làm chứng: chị Nguyễn Thị Minh O, sinh năm 1999; HKTT: đường B, quận L, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14h ngày 22/01/2019, C điều khiển xe máy Dream, BKS: 29X5-412.02 đi đến sân vận động Trường Đại học, phường V, quận C, Hà Nội xem có ai sơ hở để trộm cắp. Đến nơi, C thấy một số sinh viên đang đá bóng ở sân và để một số túi xách, balo trên khán đài của sân vận động. C đỗ xe ở cổng trường rồi lên khán đài ngồi và quan sát không thấy người trông giữ, C đi đến lấy 01 túi xách dạng thể thao màu đen có in chữ ADIDAS màu trắng của anh Trần Văn D. Sau khi lấy được túi xách, C mang ra khỏi vị trí ban đầu khoảng 1 mét và mở túi xách lục soát lấy tài sản bên trong, phát hiện 01 ví da và 01 điện thoại di động cùng các tài sản khác. Khi C đang lục túi của anh D thì chị Nguyễn Thị Minh O là bạn học với anh D phát hiện và nói: “Túi của bạn em, anh làm gì đấy”, thấy vậy, C không lục túi nữa mà kéo khóa lại, mang túi trả lại vị trí cũ và nói: “anh nhầm túi bạn anh” rồi bỏ chạy về phía cổng trường. Chị O đã tri hô “trộm, trộm” thì anh D và anh Trần Quang Đ đuổi theo bắt được C. Mở túi xách của anh D ra kiểm tra thì có 01 điện thoại di động Iphone 7 màu đen; 01 cuốn sổ; 01 bộ quần áo cộc tay màu đen và 01 ví da màu nâu bên trong có 720.000 đồng. Anh D, anh Đạt đã đưa C cùng toàn bộ tang vật về công an phường Dịch Vọng Hậu giải quyết. Ngoài ra, cơ quan Công an còn thu giữ của C 01 xe máy Dream, BKS: 29X5-412.02.

Ti cơ quan Công an, C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung trên. Lời khai của C phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án.

Kết luận định giá tài sản số 33/TCKH-BBĐGHĐ ngày 22/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Cầu Giấy xác định: 01 túi xách dạng thể thao màu đen có in chữ ADIDAS có giá trị 80.000 đồng; 01 điện thoại di động Iphone 7 màu đen có giá trị 8.250.000 đồng; 01 ví da mầu nâu có giá trị 50.000 đồng; cuốn sổ và bộ quần áo cộc tay màu đen không còn giá trị định giá.

Như vậy, tổng giá trị tài sản mà C chiếm đoạt của anh D là 9.100.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại toàn bộ tài sản trên cho anh D. Anh D đã nhận lại đủ tài sản và không có yêu cầu gì về bồi thường.

Đi với chiếc xe máy Dream, BKS: 29X5-412.02, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Đăng Đ là bạn của C. Anh Đ cho C mượn sử dụng, việc C sử dụng chiếc xe trên đi trộm cắp tài sản, anh Đ không biết. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe máy trên cho anh Đ. Anh Đ đã nhận lại xe máy và không có yêu cầu gì.

Ti bản cáo trạng số 107/CT-VKSCG ngày 05/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy đã truy tố NGUYỄN HUY C phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã công bố, thái độ ăn năn hối cải.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo C theo tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản Cáo trạng số 107/CT-VKSCG ngày 05/4/2019 và đề nghị áp dụng khoản 1 điều 173; điểm i,s khoản 1 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự. Về dân sự - vật chứng: không.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Cầu Giấy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2]Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai người bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14h ngày 22/01/2019, tại khu vực sân vận động trường Đại học, phường V, quận C, Hà Nội, NGUYỄN HUY C đã lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt 01 túi xách dạng thể thao màu đen có in chữ ADIDAS màu trắng, 01 điện thoại di động Iphone 7 màu đen; 01 cuốn sổ; 01 bộ quần áo cộc tay màu đen và 01 ví da màu nâu bên trong có 720.000 đồng; Tổng trị giá tài sản là 9.100.000 đồng của anh Trần Văn D. Sau khi lấy được túi xách, bị cáo mang túi xách ra khỏi vị trí ban đầu được khoảng 1 mét thì bị phát hiện, bắt giữ.

Hành vi của NGUYỄN HUY C đã phạm vào tội "Trộm cắp tài sản" tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, do bị phát hiện, nên bị cáo chưa chiếm đoạt được tài sản. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn thể hiện sự ăn năn hối cải, nhân thân chưa tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Bị cáo C, sinh năm 1990, trình độ văn hóa 12/12, bị cáo đã có đủ năng lực, nhận thức để biết hành vi nào là vi phạm pháp luật, nhưng do muốn kiếm tiền bằng con đường bất chính, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của người bị hại lén lút chiếm đoạt tài sản thể hiện thái độ coi thường pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi chủ quan, cố ý. Do vậy, căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, xét thấy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và đáp ứng công tác răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét đến bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, tình tiết giảm nhẹ về nhân thân quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự, tài sản chưa chiếm đoạt được để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, tính chất mức độ phạm tội đơn giản, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, cho bị cáo được hưởng án treo và chịu thời gian thử thách, giao về chính quyền địa phương quản lý, giám sát cũng đủ tác dụng cải tạo giáo dục, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Xét bị cáo không có nghề nghiệp, tài sản chưa chiếm đoạt được nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự.

[5] Xử lý tang vật vụ án và án phí:

Tang vật – vật chứng đã trả người bị hại, người liên quan. Người bị hại, người liên quan không có yêu cầu gì về dân sự nên không xét.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: NGUYN HUY C – sinh năm 1990 Phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Căn cứ vào: khoản 1 điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự. Điều 136; điều 331; điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 21, điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án và danh mục kèm theo của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội khóa 14.

Xử phạt: NGUYN HUY C 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo. Hạn thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo NGUYỄN HUY C về Ủy ban nhân dân xã Y, huyện Đ, Thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án.

-Trường hợp NGUYỄN HUY C thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

-Trong thời gian thử thách, nếu NGUYỄN HUY C cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc NGUYỄN HUY C phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Bị cáo NGUYỄN HUY C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Ngưi bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần liên quan trong bản án; trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội trộm cắp tài sản  

Số hiệu:96/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về