Bản án 96/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 96/2019/HS-ST NGÀY 18/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 96/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 05 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 16/12/1984 tại Thái Bình; nơi cư trú: Xã T1, huyện V, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Nguyễn Văn T2, sinh năm 1959 và con bà: Trần Thị K, sinh năm 1958; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 16 ngày 23/6/2010 của Công an phường Q, thành phố Thái Bình đối với Nguyễn Ngọc T về hành vi vi phạm quy định về phòng chống kiểm soát bằng hình thức phạt tiền 350.000 đồng; quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 10 ngày 13/6/2011 của Công an phường Tr, thành phố Th đối với Nguyễn Ngọc T về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng; bị tạm giữ từ ngày 22/02/2019 đến ngày 28/02/2019 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ, Công an thành phố Thái Bình; có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1959; nơi cư trú: Xã T1, huyện V, tỉnh Thái Bình; có mặt.

- Người chứng kiến:

1. Anh Dương Ngọc H, sinh năm 1985; nơi cư trú: Phường B, thành phố Th, tỉnh Thái Bình; vắng mặt.

2. Anh Trần Đức L, sinh năm 1981; nơi cư trú: Phường K, thành phố Th, tỉnh Thái Bình; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo cac tai liêu co trong hô sơ vu an va diên biên tai phiên toa, nôi dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 22/02/2019 Nguyễn Ngọc T điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Air Blade màu xám bạc đen, biển kiểm soát 17B2-185.29 từ nhà đến khu vực phường K, thành phố Th với mục đích mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến địa điểm trên, T gặp và mua của 01 người nam giới khoảng 40 tuổi không biết tên và địa chỉ 01 gói được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục với giá 100.000 đồng sau đó cầm ở lòng bàn tay phải điều khiển xe máy đi tìm chỗ để sử dụng. Khi T đi đến khu vực phường K, thành phố Th thì tổ công tác Công an thành phố Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Trước sự chứng kiến của anh Dương Ngọc H và anh Trần Đức L, T tự giác giao nộp 01 gói ma túy, T khai là Hêrôin mua về để sử dụng cho bản thân, tổ công tác đã niêm phong gói ma túy có chữ ký của bị cáo và những người chứng kiến. Tổ công tác dẫn giải T và mời người chứng kiến về trụ sở Công an phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình để kiểm tra, thu giữ tại túi quần bên phải của T 01 chiếc điện thoại Iphone 6s Plus màu trắng, 01 chiếc ví giả da màu đen đã cũ bên trong có 01 chiếc giấy phép lái xe, 01 đăng ký xe máy, 01 chứng minh nhân dân đều mang tên Nguyễn Ngọc T và số tiền 250.000 đồng. Kiểm tra chiếc xe máy không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số 44/KLGĐ-PC09 ngày 22/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Vật chứng thu giữ của Nguyễn Ngọc T gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), khối lượng là 0,1230 gam (Không phảy một nghìn hai trăm ba mươi gam).

Trong qua trinh điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc T không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình nêu trên.

Bản cáo trạng số 102/CT-VKSTPTB ngày 15 tháng 5 năm 2019 của Viện kiêm sat nhân dân thanh phô Thai Binh truy tô bi cao Nguyễn Ngọc T vê tôi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

* Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Hình phạt bổ sung: Bị cáo làm nghề lao động tự do, thu nhập không ổn định, bị cáo mua ma túy về để sử dụng cho bản thân, không giao dịch để bán kiếm lời nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy hoàn trả sau giám định; Trả lại cho bị cáo 01 chiếc ví giả da màu đen đã cũ; 01 chứng minh nhân dân, 01 đăng ký xe mô tô, 01 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Ngọc T; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu trắng đã cũ được niêm phong trong phong bì và số tiền 250.000 đồng nhưng đối với số tiền tiếp tục quản lý để bảo đảm thi hành án. Trả lại cho ông Nguyễn Văn T2 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Air Blade màu xám bạc đen, biển kiểm soát 17B2-185.29.

Bị cáo đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã truy tố và không có ý kiến tranh luận đối với luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau: Vào khoảng 11 giờ 15 phút, ngày 22/02/2019 tại khu vực đường phường K, thành phố Th, tỉnh Thái Bình, bị cáo Nguyễn Ngọc T có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại Hêrôin có khối lượng 0,1230 gam với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 11 giờ 30 phút ngày 22 tháng 02 năm 2019; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; bản Kết luận giám định số: 44/KLGĐ-PC09 ngày 22 tháng 02 năm 2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; lời khai của người chứng kiến là anh Dương Ngọc H và anh Trần Đức L; cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.Theo quy định tại điểm c khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c) Heroin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

...”.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, đi ngược lại với cuộc đấu tranh bài trừ tệ nạn ma túy. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Ngọc T không có tiền án tiền sự nhưng có nhân thân xấu là 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nhưng cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, thu nhập của bị cáo không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

[7.1] Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo Nguyễn Ngọc T 0,1230 gam ma túy loại Hêrôin còn lại sau giám định là 0,1033 gam trong phong bì niêm phong số 44/KLGĐ-PC09 là vật Nhà nước cấm lưu hành, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[7.2] Đối với xe máy nhãn hiệu Honda Air Blade màu xám bạc đen, biển kiểm soát 17B2 - 185.29 quá trình điều tra xác định đăng ký mang tên Nguyễn Ngọc T. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc T và ông Nguyễn Văn T2 đều đề nghị được nhận lại chiếc xe trên là phương tiện đi lại trong gia đình và đề nghị cho ông T2 được nhận chiếc xe máy thay cho bị cáo T. Xét thấy chiếc xe là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, căn cứ Điều 46 và Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần trả lại cho bị cáo và chấp nhận việc ông T2 là người nhận chiếc xe máy trên thay bị cáo T. Việc bị cáo T và ông T2 khai nguồn gốc số tiền mua xe máy là của ông T2 (bố đẻ bị cáo), ông T2 không có yêu cầu gì đối với số tiền này nên không đặt ra giải quyết.

[7.3] Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo Nguyễn Ngọc T 01 điện thoại di động Iphone 6s Plus, màu trắng đã cũ được niêm phong trong phong bì; số tiền 250.000 đồng; 01 ví giả da màu đen; 01 chứng minh thư nhân dân, 01 đăng ký xe, 01 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Ngọc T là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, căn cứ Điều 46 và Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[8] Về nguồn gốc số ma túy: Nguyễn Ngọc T khai mua của một người nam giới khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ tại khu vực phường K, thành phố Th nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ 22 tháng 02 năm 2019.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy có trong 01 phong bì niêm phong số 44/KLGĐ mẫu vật hoàn trả sau giám định.

3.2. Trả lại bị cáo 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Air Blade màu xám bạc đen, biển kiểm soát 17B2 - 185.29. Bị cáo Nguyễn Ngọc T đồng ý để ông Nguyễn Văn T2 là người nhận chiếc xe máy trên thay cho bị cáo.

3.3. Trả lại bị cáo Nguyễn Ngọc T 01 điện thoại di động Iphone 6s Plus, màu trắng đã cũ được niêm phong trong phong bì; 01 ví giả da màu đen; 01 chứng minh thư nhân dân; 01 đăng ký xe; 01 giấy phép lái xe đều mang tên Nguyễn Ngọc T, 3.4. Trả lại bị cáo Nguyễn Ngọc T số tiền 250.000 đồng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 16 tháng 5 năm 2019 và Biên lai thu tiền ngày 16 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Ngọc T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 18 tháng 6 năm 2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:96/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về