Bản án 96/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BTỈNH ĐỒNG NAI

BN ÁN 96/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B – tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 2743/2018/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2018, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 196/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Đặng Thị N, sinh năm 1974;

- Hộ khẩu thường trú: Số nhà 51/4B, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Địa chỉ: Số nhà 36, tổ 36, khu phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

2. Bị đơn: Ông Dương Bá H, sinh năm 1974.

- Hộ khẩu thường trú: Số nhà 51/4B, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Địa chỉ: Số nhà 36, tổ 36, khu phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà N, ông H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ti đơn khởi kiện,bản tự khai nguyên đơn bà Đặng Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông H tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1994, đến năm 2008 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, hôn nhân là tự nguyện. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn, ngày càng trầm trọng, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống và lối sống. Vợ chồng bà cũng đã nhiều lần hàn gắn nhưng không thành. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông Hnên xin được ly hôn.

Về con chung: Có 02 con chung là Dương Thị Ngọc Y, sinh ngày 20/11/2003 và cháu Dương Ngọc T, sinh ngày 12/12/1994. Khi ly hôn bà xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Y, bà không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung. Riêng cháu Dương Ngọc T đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ti bản tự khai bị đơn ông Dương Bá H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông không có ý kiến về việc kết hôn, ông H không đồng ý ly hôn nhưng lý do ông không đồng ý là vì chưa chia tài sản chung, nếu bà N cương quyết ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

Về con chung: Hiện hai con đang ở với mẹ, ông không có ý kiến về phần con chung.

Về tài sản chung: Đề nghị bà N thỏa thuận chia tài sản chung nhưng ông không nộp đơn yêu cầu tòa án giải quyết chia tài sản chung.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án ông H chỉ nộp bản tự khai. Sau đó, mặc dù Tòa án đã nhiều lần tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng và giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho ông Dương Bá H đến Tòa làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng ông H vắng mặt không có lý do nên không có lời khai bổ sung.

Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định. Bị đơn thực hiện không đúng.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của bà N. Về con chung: Giao cháu Dương Thị Ngọc Y, sinh ngày 20/11/2003 cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời ông H không phải cấp dưỡng nuôi con. Riêng cháu Dương Ngọc T đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu. Bà Nphải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật, tư cách đượng sự: Bà Đặng Thị N yêu cầu được ly hôn với ông Dương Bá H, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Dương Thị Ngọc Y, sinh ngày 20/11/2003. Căn cứ vào Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định bà Đặng Thị N là nguyên đơn, ông Dương Bá H là bị đơn.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Đặng Thị N nộp đơn yêu cầu giải quyết ly hôn với ông Dương Bá H, có đăng ký hộ khẩu thường trú tại: 51/4B, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Hiện đang cư trú tại: 36, tổ 36, khu phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

[3] Về thủ tục tố tụng: Bà Đặng Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt, Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa theo quy định của pháp luật, nhưng ông Dương Bá H vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Bà Đặng Thị N và ông Dương Bá H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 31 ngày 20/3/2008 nên áp dụng Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà N, Hội đồng xét xử thấy: Theo như bà N trình bày thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng sau đó không lâu thì bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống. Tại bản tự khai ngày 02/01/2019, ông H không đồng ý ly hôn nhưng lý do ông không đồng ý là vì chưa chia tài sản chung chứ không phải vì còn tình cảm với bà N. Mặt khác, Tòa án cũng đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho ông H đến Tòa làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông H vẫn cố tình vắng mặt, cho thấy ông H không muốn níu kéo cuộc hôn nhân này. Đồng thời căn cứ theo Biên bản xác minh nơi bà N, ông Hđang cư trú thì địa phương cho biết ông Hhiện đang sinh sống tại địa phương, giữa vợ chồng bà N và ông H thường xảy ra mâu thuẫn cụ thể là ông H có hành vi bạo lực gia đình, đạp phá tài sản chung trong gia đình, Ủy ban nhân dân phường T xử phạt vi phạm hành chính. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà N và ông H đã thật sự trầm trọng, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc bà N xin ly hôn với ông H là có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Bà N và ông Hcó 02 chung là Dương Ngọc T, sinh ngày 12/12/1994 và Dương Thị Ngọc Y, sinh ngày 20/11/2003 cháu, hiện bà N đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu Y. Khi ly hôn bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Hiện bà N và ông H thửa nhận hiện 02 con đang ở với mẹ, qua tham khảo ý kiến của cháu Y thì nguyện vọng của cháu muốn được ở với bà N. Để đảm bảo cuộc sống ổn định cho cháu Y nên tạm thời giao cháu cho bà N trực tiêp nuôi dưỡng, tạm thời ông H không cấp dưỡng nuôi con chung. Riêng cháu Dương Ngọc T đã trưởng thành, có khả năng lao động nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, bà N, ông H vẫn phải có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung. Ông H có quyền thăm nom con; không ai được cản trở thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung: Theo bà N trình bày là vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án đã hướng dẫn ông Hl àm thủ tục và ấn định thời gian để yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhưng ông H vẫn không yêu cầu Tòa án giải về tài sản chung, nên không đặt ra xem xét mà tách ra giải quyết bằng vụ án khác khi đương sự có yêu cầu.

[5] Về nợ chung: Theo bà N, ông H trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết

[6] Về án phí: Bà N phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 203, Điều 220, Điều 238, Điều 266, Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 11, Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị N.

Bà Đặng Thị N được ly hôn với ông Dương Bá H.

2. Về con chung: Giao cháu Dương Thị Ngọc Y, sinh ngày 20/11/2003 cho của bà Đặng Thị N trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm thời ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Riêng cháu Dương Ngọc T đã trưởng thành, có khả năng lao động nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con, khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

4. Về án phí: Bà Đặng Thị N phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 009841 ngày 05/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2019/HNGĐ-ST ngày 24/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:96/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về