Bản án 96/2018/HS-ST ngày 02/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 96/2018/HS-ST NGÀY 02/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 91/2018/TLST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2018/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Vì Văn M; tên gọi khác: Không; sinh năm 1991, tại Hòa Bình; Nơi cư trú: Bản N, xã Ch, huyện M, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vì Văn O, sinh năm 1959 và bà Hà Thị X, sinh năm 1967, bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Có 01 tiền án, ngày 29/01/2015 Tòa án huyện M, tỉnh Hòa Bình xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (chưa được xóa án tích); tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt từ ngày 22/6/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

2. Lý Văn V; tên gọi khác: Không; sinh năm 1982, tại Hòa Bình; Nơi cư trú: Xóm T, xã T, huyện M, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Văn Q (đã chết) và bà Bàn Thị T, sinh năm 1963, bị cáo có vợ là Bàn Thị Th và 03 con; tiền án: không; tiền sự: không

Nhân thân: Ngày 31/12/2008 Tòa án nhân dân huyện M xử phạt 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành song hình phạt tù ngày 08/02/2014, nộp án phí hình sự sơ thẩm ngày 06/02/2009 (đương nhiên được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt từ ngày 22/6/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

- Người bị hại: Chị Giàng Y D, sinh năm 1987, Nơi cư trú: Bản C, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Vì Văn O, sinh năm 1959; Nơi cư trú: Xóm N, xã Ch, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

- Bà Hà Thị X, sinh năm 1967; Nơi cư trú: Xóm N, xã Ch, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

- Chị Vàng Y D, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Xóm H, xã H, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Chị Vàng Thị M, sinh năm 1987; Nơi cư trú: Xóm H, xã H, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt

- Ngần Văn D, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Xóm B, xã T, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt

Người phiên dịch cho chị Giàng Y D: Ông Sồng A P, sinh năm 1985; Nơi cư trú:

Tiểu khu 10, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vì Văn M và Lý Văn V đều là đối tượng nghiện ma túy quen biết nhau. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 17/6/2018 M cùng V đi lên khu vực bản C, xã L, huyện V mua ma túy cùng sử dụng. Sau đó M rủ V đi lên nhà Giàng Y D, sinh năm 1987 tại Bản C, xã L, huyện V để trộm cắp tài sản lấy tiền mua ma túy. M điều khiển xe máy BKS: 28M1-1366 của Vì Văn O, sinh năm 1959, trú tại xóm N, xã Ch, huyện M còn V điều khiển xe máy 35H4-3824 của V đi đến nhà D. khi đến nhà D, V đứng canh gác còn M trực tiếp dùng 01 con dao mang theo để cậy cửa nhưng không được. M trèo lên mái proximang rồi cậy tấm proximang ra và chui vào nhà. M dùng điện thoại soi và lấy 03 chiếc bao tải màu trắng và màu xanh trong nhà Giàng Y D để đựng những tài sản trộm cắp sau đó mạnh buộc các bao tải đựng váy, áo và vải lại rồi ném qua mái bếp ra ngoài, còn bao tải đựng máy khâu M lấy các mảnh dây vải buộc rồi kéo ra ngoài. Khi mang tất cả tài sản trộm cắp ra ngoài M gọi điện cho V đi xe máy vào để chở hai bao tải đựng váy áo và vải còn M chở bao tải đựng máy khâu đi đến khu vực nương mận thuộc xã H, huyện M, tỉnh Hòa Bình cất giấu. Sau đó V đi về nhà còn M ngủ qua đêm ở đó. Tài sản trộm cắp gồm: 01 chiếc máy khâu nhãn hiệu Janome; 06 chiếc dây cu roa của bàn máy khâu, 01 chiếc bàn là nhãn hiệu Philips; 10 cuộn chỉ thêu, 10 chiếc váy thổ cẩm các loại, 20 chiếc tay áo thổ cẩm, 10 chiếc áo thổ cẩm các loại, 16 cuộn vải thổ cẩm. Sáng ngày 18/6/2018 M đã bán cho 03 người phụ nữ dân tộc mông không quen biết 03 chiếc váy thổ cẩm loại to, 02 chiếc áo thổ cẩm loại to, 02 cuộn vải thổ cẩm màu xanh loại mỏng, 01 cuộn vải thổ cẩm màu đỏ xanh với giá 410.000 đồng. Khoảng 17 giờ cùng ngày, M đang mang các bao tải đựng tài sản trộm cắp đi bán thì gặp Ngần Văn D, M bảo D là đang mang vải của gia đình đi bán D đã chở M đi vào nhà Vàng Y D, M đã bán cho D 03 bịch vải gồm 12 cuộn vải có hình hoa văn được số tiền 170.000 đồng. M cho D 50.000 đồng. Sau đó M mang số vải, áo đựng bao tải chưa bán được đến nơi M để xe máy và vứt 02 chiếc áo thổ cẩm loại nhỏ bên cạnh đường tại xóm H. Sau đó, M mua 01 gói heroine của người đàn ông dân tộc Mông không quen biết với giá 350.000 đồng. M chia thành 02 gói nhỏ, M cất giấu váy, áo, vải còn lại vào hốc đá rồi điều khiển xe máy chở chiếc bao tải đựng chiếc máy khâu về nhà V và đưa cho V 01 gói Heroine và nói đó là dùng tiền quần áo trộm cắp để mua ma túy. Sau đó, M mang máy khâu về nhà cất giấu. Sáng ngày 21/8/2018 M đã bán cho Vàng Y M 01 chiếc váy thổ cẩm loại to, 01 chiếc váy thổ cẩm loại nhỏ, 01 chiếc áo thổ cẩm loại to với giá 220.000 đồng. Sau đó M bán cho 01 người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết 01 chiếc váy thổ cẩm loại nhỏ, 01 chiếc áo thổ cẩm loại to, 10 cuộn chỉ thêu, 01 cuộn vải to, được 300.000 đồng. Sau đó, M đi đến đường dân sinh của bản H hỏi mua được 01 gói Heeroine của người đàn ông dân tộc Mông không quen biết với giá 350.000 đồng. M gọi điện cho V ra và chia Heroine ra cùng V sử dụng hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản Giàng Y D đã trình báo đến cơ quan Điều tra công an huyện V đề nghị điều tra làm rõ.Tài sản của Giàng Y D bị mất gồm: 01 chiếc máy khâu nhãn hiệu Janome; 06 chiếc dây cu roa của bàn máy khâu, 01 chiếc bàn là nhãn hiệu Philips; 10 cuộn chỉ thêu, 10 chiếc váy thổ cẩm các loại, 20 chiếc tay áo thổ cẩm, 10 chiếc áo thổ cẩm các loại, 16 cuộn vải thổ cẩm, khi biết tin có người mang áo vải của người dân tộc Mông đi bán ở khi vực H, huyện M, tỉnh Hòa Bình, D đã đưa cho Vàng Y M 600.000 đồng để M mua lại số tài sản mang về đưa cho D, sau khi kiểm tra phát hiện đúng đấy là tài sản của gia đình bị mất nên D đã giao tài sản đó cho cơ quan điều tra để điều tra làm rõ.

Ngày 22/6/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện V đã ra lệnh khám xét và thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Vì Văn M. Kết quả đã phát hiện thu giữ 01 chiếc máy khâu nhãn hiệu Janome, màu sơn trắng, 06 dây làm bằng nhựa, hình tròn, màu da cam, đã sử dụng; 01 chiếc bao tải màu xanh.

Ngày 22/6/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện V đã khám nghiệm hiện trường, xác định nơi Vì Văn M và Lý Văn V trộm cắp tài sản là khu vực vườn ngô của gia đình Giàng Y D thuộc bản C, xã L, huyện V.

Kết luận định giá tài sản số 09 ngày 27/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V kết luận: “ 01 chiếc máy khâu nhãn hiệu Janome có giá 2.000.000 đồng, 06 chiếc dây cu roa có giá 12.000 đồng, một chiếc bàn là Philips có giá 100.000 đồng, bốn chiếc váy thổ cẩm dân tộc mông có giá 2.200.000 đồng, sáu chiếc váy thổ cẩm dân tộc mông màu trắng có giá 1.800.000 đồng, 10 chiếc tay áo thổ cẩm dân tộc mông loại cỡ to có giá 2.000.000 đồng, mười chiếc tay áo thổ cẩm dân tộc mông loại cỡ nhỏ có giá 1.500.000 đồng, năm chiếc áo thổ cẩm dân tộc Mông loại cỡ to có giá 4.500.000 đồng, năm chiếc áo thổ cẩm dân tộc mông lại cỡ nhỏ có giá 3.500.000 đồng, ba bịch túi nilon vải thổ cẩm của dân tộc mông có giá 2.550.000 đồng, một cuộn vải dân tộc mông có màu đỏ có giá 1.200.000 đồng, mười cuộn chỉ thêu màu trắng được mua vào tháng 01/2018 chưa qua sử dụng, có giá 200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 21.562.000 đồng’’.

Kết luận định giá tài sản số 11 ngày 09/7/2017 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V kết luận: “ Hai cuộn vải thổ cẩm dân tộc Mông, có hoa văn màu xanh có giá 1.200.000 đồng, một cuộn vải thổ cẩm dân tộc mông có hoa văn màu đỏ có giá 1.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 2.200.000 đồng.

Như vậy tổng giá trị tài sản trộm cắp của 02 kết luận định giá là 23.762.000 đồng.

Bản cáo trạng số 62/CT – VKS ngày 22/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố bị cáo Vì Văn M, Lý Văn V về tội Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung truy tố đối với các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét: Tuyên bố các bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản.

- Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52(đối với Vì Văn M), Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt: Vì Văn M, từ 01(một) năm 06 tháng tù đến 02(hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Xử phạt Lý Văn V Từ: 01(một) năm tù đến 02 (hai) năm tù.

- Không phạt bổ sung, không khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, các Điều 584, 585, 587 Bộ luật dân sự, bộc các bị cáo phải liên đới bồi thường thiệt hại cho người bị hại. 

Về vật chứng: áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận việc Cơ quan điều tra trả lại cho người bị hại chị Giàng Y D những tài sản đã thu hồi được, trả lại cho chị Giàng Y D số tiền 280.000 đồng thu giữ của bị cáo Vì Văn M (do bán tài sản trộm cắp được mà có); Tạm giữ của bị cáo Vì Văn M 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO kèm 02 sim Viettel; trả lại cho ông Vì Văn O 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SUFAT sơn màu nâu BKS:28M1-1366, số máy OFMG520235, số khung G1PJ5A520235, 01 đăng ký xe mô tô số 001372 mang tên Khà Văn Th; tịch thu sung ngân sách Nhà nước chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe Wave màu sơn đỏ đen, BKS 35H4-3824, số máy JSI52FMI4201716, số khung RLPOCHBUMB003716; tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đã niên phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Vì Văn M, 01 phong bì đã niêm bên trong đựng que thử ma túy đối với Lý Văn V, 01 chiếc bao tải màu xanh đã qua sử dụng. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của bị cáo Vì Văn M: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Ý kiến của bị cáo Lý Văn V: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Ý kiến của người bị hại: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên, thiệt hại các bị cáo gây ra chưa bồi thường là 17.600.000 đồng, yêu cầu các bị cáo phải liên đới bồi thường. Về phần hình phạt bị hại đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức án nghiêm khắc đối với các bị cáo.

Bị cáo Vì Văn M nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Bị cáo Lý Văn V nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Vì Văn M, Lý Văn V về tội “Trộm cắp tài sản” đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong

vụ án đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa bị cáo Vì Văn M, Lý Văn V khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của người làm chứng, lời khai của người bị hại, lời khai của Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu chứng cứ khác thể hiện: Do nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, ngày 17/6/2018 Vì Văn M và Lý Văn V lợi dụng sự mất cảnh giác của chủ sở hữu, lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của chị Giàng Y D. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 23.762.000 đồng. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Vì Văn M, Lý Văn V phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, như quyết định truy tố và quan điểm luận tội tại phiên toà của Kiểm sát viên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Vì Văn M đã bị kết án, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên là tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án: Bị cáo Vì Văn M là người khởi sướng, rủ rê, trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp và mang tài sản trộm cắp đi tiêu thụ. Bị cáo Lý Văn V đã cảnh giới để bị cáo M thực hiện hành vi trộm cắp, trực tiếp dùng xe làm phương tiện vận chuyển tài sản trộm cắp đi cất giấu cùng bị cáo M và trực tiếp sử dụng ma túy từ số tiền tiêu thụ tài sản trộm cắp nên là đồng phạm với vai trò giúp sức. Trong vụ án này bị cáo M phạm tội giữ vai trò tích cực hơn.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là ít nghiêm trọng, xâm phạm sở hữu gây thiệt hại đến lợi ích kinh tế của bị hại. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Các bị cáo là thanh niên có sức khỏe nhưng lười lao động, đua đòi thích hưởng thụ nên đã bất chấp coi thường pháp luật. Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu, sau khi phạm tội chưa khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Do vậy, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian, tạo điều kiện để giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người có ích.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù các bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo nghiện ma túy, không có nghề nghiệp, không có thu nhập. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Các bị cáo đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục tạm giam các bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Đối với 01 con dao nhỏ ; 01 chiếc điện thoại của M và 01 chiếc điện thoại của V. Sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản M và V đã để thất lạc nên không thu giữ được. Đối với 02 chiếc áo thổ cẩm loại nhỏ Vì Văn M vứt cạnh đường của xóm H, xã H, huyện M, Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thu giữ lại được.

Đối với 02 chiếc bao tải M sử dụng để đựng tài sản trộm cắp, sau khi mang tài sản đi bán M đã cho những người mua tài sản 02 chiếc bao này nên cơ quan điều tra không thu giữ lại được.

Đối với những người dân tộc Mông không quen biết đã mua tài sản của Vì Văn M do M không biết lai lịch của những người này nên cơ quan điều tra không thu giữ lại được tài sản.

Đối với các đối tượng người dân tộc Mông không quen biết đã bán ma túy cho M do M không biết tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra xử lý.

[5] Về dân sự của vụ án: Cơ quan điều tra đã thu hồi được một phần tài sản trả lại cho bị hại Giàng Y D, bị hại chị Giàng Y D yêu cầu các bị cáo phải bồi thường giá trị thiệt hại về tài sản không thu giữ được là 17.600.000 đồng, quá trình điều tra thu giữ của Vì Văn M 280.000 đồng đây là tiền do bán tài sản trộm cắp mà có nên cần trả lại cho bị hại, giá trị thiệt hại còn lại các bị cáo phải liên đới bồi thường cho người bị hại là 17.320.000 đồng ( 17.600.000đ – 280.000đ = 17.320.000đ). Tại phiên tòa các bị cáo thống nhất thỏa thuận mỗi bị cáo chịu trách nhiệm bồi thường 8.660.000 đồng. Hội đồng xét xử buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bị hại, mỗi bị cáo phải bồi thường 8.660.000 đồng. Vàng Y D không yêu cầu Vì Văn M phải bồi thường số tiền bỏ ra mua tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[6] Về vật chứng vụ án:

Chấp nhận việc cơ quan điều tra thu hồi được số tài sản trả cho người bị hại gồm: 01 chiếc máy khâu nhãn hiệu Janome, 06 dây cu roa, 01 chiếc áo thổ cẩm loại to, 01 chiếc váy thổ cẩm loại to, 01 chiếc váy thổ cẩm loại nhỏ, 12 cuộn vải có hình hoa văn.

Đối với Chiếc xe máy BKS 28M1 – 1366 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 0001372 mang tên Khà Văn Th là tài sản của ông Vì Văn O, việc Vì Văn M dùng xe làm phương tiện thực hiện hành vi trộm cắp ông Vì Văn O không biết nên tuyên trả lại ông Ong là chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO kèm 02 sim viettel là tài sản Vì Văn M mượn của bà Hà Thị X, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bà Hà Thị X là chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe Wave màu sơn đỏ đen, BKS: 35H4-3824, số máy JSI52FMI4201716, số khung FLPOCHBUMB003716 là tài sản của Lý Văn V dùng làm phương tiện phạm tội nên tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đối với các phong bì đã niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Vì Văn M và Lý Văn V, 01 bao tải màu xanh là những vật không còn giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự theo quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, Điều 17, Điều 58; điểm h khoản 1 Điều 52 (đối với bị cáo Vì Văn M) Bộ luật hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Vì Văn M, Lý Văn V phạm tội: Tội trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Vì Văn M 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam (22/6/2018).

Xử phạt bị cáo Lý Văn V 18 (mười tám) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam (22/6/2018).

Không phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 586, 587, 589 Bộ luật dân sự, buộc các bị cáo Vì Văn M, Lý Văn V Phải liên đới bồi thường thiệt hại cho người bị hại chị Giàng Y Dỡ, mỗi bị cáo phải bồi thường là 8.660.000 đồng.

Chấp nhận việc chị Vàng Y D không yêu cầu bị cáo Vì Văn M phải bồi thường thiệt hại số tiền đã bỏ ra mua tài sản là 170.000 đồng.

3. Về Vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1, Khoản 2 Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Chấp nhận Cơ quan điều tra thu hồi được số tài sản trả cho người bị hại gồm: 01 chiếc máy khâu nhãn hiệu Janome, 06 dây cu roa, 01 chiếc áo thổ cẩm loại to, 01 chiếc váy thổ cẩm loại to, 01 chiếc váy thổ cẩm loại nhỏ, 12 cuộn vải có hình hoa văn.

Trả lại cho chị Giàng Y D 280.000 đồng.

Trả lại cho bà Hà Thị X 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO kèm 02 sim Viettel;

Trả lại cho Ông Vì Văn O 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SUFAT sơn màu nâu BKS:28M1-1366, số máy OFMG520235, số khung G1PJ5A520235, 01 đăng ký xe mô tô số 001372 mang tên Khà Văn Th;

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA loại xe Wave màu sơn đỏ đen, BKS: 35H4-3824, số máy JSI52FMI4201716, số khung RLPOCHBUMB003716.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đã niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Vì Văn M, 01 phong bì đã niêm bên trong đựng que thử ma túy đối với Lý Văn V, 01 chiếc bao tải màu xanh đã qua sử dụng.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, các điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Vì Văn M, Lý Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000 đồng. Các bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 433.000 đồng.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có QLNVLQ có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự ”.

“Kể từ thời điểm người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thi hành hoặc thi hành không đầy đủ thì người phải thi hành án phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi xuất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2018/HS-ST ngày 02/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:96/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về