Bản án 96/2018/DS-ST ngày 26/06/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 96/2018/DS-ST NGÀY 26/06/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Ngày 26 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 28/2017/TLST-DS ngày 20 tháng 3 năm 2017 về “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2018/QĐXXST-DS ngày 14 tháng 5 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số 75/2018/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thúy L, sinh năm 1955 (Có mặt) Nơi cư tru: Tổ 3, ấp A, xã A, huyện C, tỉnh An Giang

Bị đơn: Bà Hồ Thị Ngọc G, sinh năm 1980 (Vắng mặt) Ông Nguyễn Trọng T, sinh năm 1978 (Vắng mặt)

Nơi cư tru: Tổ 7, ấp B, xã A, huyện C, tỉnh An Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hồ Thị Mỹ T, sinh năm 1990

(Có Đơn xin xét xử vắng mặt)

Nơi cư tru: Tổ 3, ấp A, xã A, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, tờ tự khai cùng ngày 10/3/2017, quá trình tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lê Thị Thúy L trình bày:

Vào tháng 02 năm 2016 bà tham gia chơi hụi do bà Hồ Thị Ngọc G làm chủ hụi cụ thể các dây hụi như sau:

1/ Dây hụi tuần 500.000đ/01tuần, hụi khui ngày 29/02/2016 Âl, hụi có 55 hụi viên tham gia. Bà tham gia 02 phần, thực hiện nghĩa vụ đóng hụi đến lần thứ 32 thì bà G úp hụi. Số tiền hụi bà G nợ bà là 22.400.000đ (Hai mươi hai triệu bốn trăm ngàn đồng). Ngoài ra, khi hụi khui đến lần thứ hai thì bà có mua thêm 02 phần hụi, đến lần thứ 33 thì bà Giài úp hụi không khui nữa, bà G nợ bà số tiền hụi là 38.000.000đ (Ba mươi tám triệu đồng). Tổng cộng bà đã đóng cho bà G tổng số tiền của 04 phần hụi là 60.400.000đ (Sáu mươi triệu bốn trăm ngàn đồng)

2/ Dây hụi 200.000đ/01 tuần, hụi khui vào ngày 12/09/2015 Âl có 57 hụi viên tham gia, bà tham gia 04 phần đóng hụi. Trong đó 02 phần hụi ghi tên bà và 02 phần bà ghi tên hụi viên tham gia là Mỹ T con gái bà tham gia 02 phần, hụi khui đến lần thứ 54 thì bà G úp hụi, không khui nữa. Dây hụi này bà G nợ bà số tiền 42.000.000đ (Bốn mươi hai triệu đồng). Danh sách hụi ghi Mỹ T nhưng tiền là của bà đóng hụi, bà T không có tham gia.

3/ Ngoài ra bà có gửi bà G tham gia thêm cho bà 02 phần hụi khui 200.000đ/01 tuần thời gian khui hụi bà không nhớ nhưng nhớ hụi có 51 hụi viên tham gia và hụi khui đến lần thứ 48 thì bà G úp hụi. Bà G nợ bà số tiền 19.000.000đ (Mười chín triệu đồng)

Sau khi úp hụi ngày 21/12/2016 bà G và bà có kết nợ hụi lại với nhau, bà G xác nhận nợ bà tổng số tiền nợ hụi là 121.400.000đ(Một trăm hai mươi mốt triệu bốn trăm ngàn đồng) có làm giấy tờ với nhau và bà G ký tên xác nhận nợ. Nay bà yêu cầu bà G và ông T (chồng bà G) có trách nhiệm liên đới trả cho bà tổng số tiền nợ hụi trên.

Bị đơn bà Hồ Thị Ngọc G trình bày tại biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải cùng ngày 26/4/2017: Bà thống nhất lời trình bày của bà Thúy L về thời gian khui hụi, số hụi viên tham gia và thời gian úp hụi; Đồng thời xác nhận vào ngày 21/12/2016 giữa bà với bà L có kết nợ với nhau, bà có viết cho bà L giấy tay ghi rõ nợ hụi và tổng số tiền còn nợ là 121.400.000đ (Một trăm hai mươi mốt triệu bốn trăm ngàn đồng), bà đồng ý cùng chồng là ông Ngyễn Trọng T có trách nhiệm trả số tiền nợ hụi trên cho bà Thúy L. Trong danh sách hụi có ghi ghi tên Mỹ T là con bà L, nhưng bà chỉ thu tiền hụi từ bà L không thu tiền bà T. Hiện hoàn cảnh vợ chồng bà khó khăn, xin trả số tiền nợ hụi trên theo phương thức trả dần cho bà L

Bị đơn, ông Nguyễn Trọng T: Vắng mặt không tham gia tố tụng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hồ Thị Mỹ T trình bày tại tờ tự khai ngày 18/9/2017: Bà xác nhận bà không tham gia hụi do bà Hồ Thị Ngọc G làm chủ hụi, hụi giữa bà L (mẹ ruột bà) với bà G bà hoàn toàn không biết. Bà là đơn xin vắng mặt không tham gia các thủ tục tố tụng tại Tòa án.

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án:

Nguyên đơn, bà Lê Thị Thúy L: Vẫn giữ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu bà G và ông T có trách nhiệm liên đới thanh toán cho bà tổng số tiền nợ hụi là 121.000.000đ (Một trăm hai mươi mốt triệu đồng).

Đồng bị đơn bà Hồ Thị Ngọc G và ông Nguyễn Trọng T vắng mặt tại phiên tòa 

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hồ Thị Mỹ T vắng mặt tại phiên tòa.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu:

+ Về chấp hanh phap luât: Trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đúng theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự

+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Thúy L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

1.1 Về quan hệ tranh chấp: Bà Thúy L có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết về số tiền nợ hụi, Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp: “hợp đồng góp hụi” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 BLTTDS.

1.2 Về thẩm quyền giải quyết: Bà Hồ Thị Ngọc G, ông Nguyễn Trọng T có nơi cư trú tại ấp B 1, xã A, huyện C, tỉnh An Giang thể hiện qua biên bản xác minh hộ khẩu bà G, ông T ngày 13/9/2017 tại Công an xã An hòa, huyện Châu Thành, An Giang xác nhận bà G, ông T có đăng ký hộ khẩu theo địa chỉ trên và hiện có mặt địa phương. Do đó, HĐXX căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 cua Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tinh An Giang. 

1.3 Về sự có mặt, vắng mặt của đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định tại các Điều 177, 179 BLTTDS 2015. Bị đơn bà Hồ Thị Ngọc G , ông Nguyễn Trọng T vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không lý do. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn xét xử vắng mặt ngày 14/9/2017. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b, điểm d khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn, người có có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Về nội dung tranh chấp:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Nhằm tạo điều kiện cho các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Nhưng phía ông T không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Tòa án yêu cầu ông T cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án theo quyết định số 29/2017/QĐ-CCTLCC ngày 14/9/2017, ông T không cung cấp và không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đồng thời, Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ nhưng vẫn không tiến hành lấy lời khai ông T được do ông không có mặt tại nhà vào thời điểm Tòa án lấy lời khai vào ngày 01/9/2017 và ngày 13/9/2017. Điều này thể hiện ông T không thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình được quy định tại các Điều 70,72,96 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Hợp đồng góp hụi giữa các bên đương sự thực tế có xảy ra, sự việc được chứng minh qua lời khai nhận của các bên, biên bản hòa giải tại Văn phòng ấp B 1, xã A, huyện Ch, An Giang ngày 24/02/2017, tại các biên bản như: Biên bản lấy lời khai bà G, biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,công khai chứng cứ và biên bản hòa giải tại tòa cùng ngày 26/4/2017. Sau khi úp hụi thì phía bị đơn và nguyên đơn có kết nợ hụi với nhau thể hiện qua chứng cứ: bà G viết giấy tay vào ngày 21/12/2016, nội dung xác nhận tổng số nợ tiền hụi là 121.000.000đ (Một trăm hai mươi mốt triệu đồng). Từ ngày xác nhận nợ cho đến nay, bà G vẫn không thực hiện không thực hiện nghĩa vụ trả tiền hụi cho phía nguyên đơn nên mới phát sinh tranh chấp. Các bên đương sự đều thống nhất với nhau về số tiền hụi mà nguyên đơn khởi kiện số tiền là 121.400.000đ (Một trăm hai mươi mốt triệu bốn trăm ngàn đồng), nhưng không thống nhất được với nhau về phương thức thanh toán nợ, phía nguyên đơn yêu cầu phía bị đơn phải có nghĩa vụ trả nợ một lần không yêu cầu tính lãi. Còn phía bị đơn bà G cho rằng đang gặp khó khăn nên không khả năng trả nợ theo yêu cầu của bà Thúy L. Hợp đồng góp hụi giữa bà L với bà G, ông T phù hợp Điều 479 BLDS 2005 cũng phù hợp quy định tại Điều 471 BLDS 2015. Bà G đã vi phạm nghĩa vụ do không giao lại các lần hụi đã thu được cho bà L theo quy định tại Điều 29 của Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006. Việc vi phạm này đã ít nhiều cũng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của phía nguyên đơn. Do đó, chấp nhận yêu cầu của phía nguyên đơn và buộc phía bị đơn phải trả nợ một lần số tiền nợ hụi là hoàn toàn phù hợp. Nguyên đơn không yêu cầu tính lãi. Hợp đồng góp hụi giữa bà L với bà G, ông T xảy ra vào năm 2015 chịu sự điều chỉnh Bộ luật dân sự 2005, tuy nhiên về nội dung và hình thức phù hợp với quy định BLDS 2015 do đó, HĐXX căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự 2015 áp dụng quy định BLDS 2015 điều chỉnh quan hệ tranh chấp.

Phía bị đơn bà G cho rằng đang khó khăn về kinh tế nên không có khả năng trả nợ một lần mà xin trả dần mội tháng 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng) cho đến khi dứt số tiền nợ hụi. Nếu bà thật sự có khó khăn sẽ xem xét giải quyết trong giai đoạn thi hành án.

Đối với yêu cầu của bà L yêu cầu ông T (chồng bà G) liên đới trách nhiệm cùng bà G trả số tiền nợ trên; Ngày 28/9/2017 Tòa án có văn bản gửi Tư pháp xã An Hòa, huyện Châu Thành, An Giang về trích lục giấy chứng nhận đăng ký kết hôn giữa bà G với ông T, nhưng UBND xã A ó công văn số 61/UBND ngày 29/9/2017 phúc đáp công văn Tòa án nội dung thể hiện giữa bà G, ông T từ năm 1980 cho đến nay không đăng ký kết hôn. Do đó, hôn nhân giữa bà G và ông T không hợp pháp. Giữa bà G và ông T không đăng ký kết hôn nhưng vẫn chung sống với nhau như vợ chồng và bà G cũng xác nhận ông T là chồng bà, việc bà khui hụi ông T biết, bà sử dụng tiền phục vụ nhu cầu thiết yếu chung cho gia đình cho thiết yếu gia đình. Bà đồng ý cùng chồng là ông Nguyễn Trọng T có trách nhiệm liên đới trả nợ cho bà L. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 298 BLDS 2005 cũng phù hợp Điều 288 BLDS 2015 thực hiện nghĩa vụ liên đới. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ được HĐXX xem xét chấp nhận

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 5, Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 217; Điều 227, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Điều 288, Điều 471, Điểm b khoản 1 Điều 688 BLDS 2015 , Bộ luật dân sự;

- Điều 29 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 Về họ, hụi, biêu, phường.

- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Xử:

1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Thúy L đối với bà Hồ Thị Ngọc G, ông Nguyễn Trọng T

Buộc bà Hồ Thị Ngọc G, ông Nguyễn Trọng T có trách nhiệm liên đới trả cho bà Lê Thị Thúy L số tiền: 121.400.000đ (Một trăm hai mươi mốt triệu bốn trăm ngàn đồng)

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Hồ Thị Ngọc G, ông Nguyễn Trọng T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 6.070.000đ( Sáu triệu không trăm bảy mươi ngàn đồng)

Hoàn trả cho bà Lê Thị Thúy L số tiền 3.035.000đ (Ba triệu không trăm ba mươi lăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000511 ngày 20 tháng 3 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

3. Quyên khang cao: Bà Lê Thị Thúy L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bà Hồ Thị Ngọc G, ông Nguyễn Trọng T, bà Hồ Thị Mỹ T không có mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ

4.Về nghĩa vụ thi hành án:

- Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

346
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 96/2018/DS-ST ngày 26/06/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:96/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về