TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 95/2020/HSST NGÀY 22/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 12 năm 2020 tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện Ea H’leo mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 93/2020/TLST-HS, ngày 16 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 91/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Thị N; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Sinh năm 2001, tại tỉnh Gia Lai; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: TDP 4, thị trấn A, huyện B, tỉnh Gia Lai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Cha: Trần Văn C, sinh năm 1978; Mẹ: Lê Thị D, sinh năm 1981; Chồng: Nguyễn Văn H, sinh năm 1995, hiện đang chấp hành án phạt tù tại trại giam E, huyện M, tỉnh Đắk Lắk; Con: Nguyễn Trần Văn T, sinh năm 2019;
Tiền sự, Tiền án: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ea H’Leo từ ngày 06 tháng 8 năm 2020 đến ngày 15 tháng 08 năm 2020 được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Nguyễn Thị S, sinh năm: 1963; Có đơn xin xét xử vắng mặt Địa chỉ: Tổ dân phố 02, thị trấn R, huyện Q, tỉnh Đắk Lắk.
+ Bà Phạm Thị V, sinh năm: 1968; Có đơn xin xét xử vắng mặt Địa chỉ: Tổ dân phố 11, thị trấn R, huyện Q, tỉnh Đắk Lắk.
- Người chứng kiến: Ông Lê U – sinh năm: 1963; Vắng mặt Địa chỉ: Tổ dân phố 11, thị trấn R, huyện Q, tỉnh Đắk Lắk
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 06/8/2020, tại sân nhà nghỉ 233 ở tổ dân phố 02, thị trấn R, huyện Q, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo phát hiện và bắt quả tang đối với Trần Thị N về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ 01 gói nylon không màu chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, N khai nhận chất rắn bị thu giữ là ma túy đá, cất giấu để sử dụng cho bản thân và bán lại cho người khác kiếm lời. Tiến hành khám xét khẩn cấp phòng trọ của Trần Thị N ở tổ dân phố 11, thị trấn R, huyện Q, N tự nguyện lấy từ trong túi quần treo trong phòng trọ ra 01 gói nylon không màu bên trong có chứa ma túy, N khai nhận chất rắn dạng tinh thể nói trên là ma túy đá, cất giấu để sử dụng cho bản thân và bán lại cho người khác kiếm lời. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, khám xét và niêm phong tang vật theo quy định.
Trong quá trình điều tra, Trần Thị N khai nhận: Vào khoảng 12 giờ ngày 06/8/2020, Trần Thị N đi bộ từ phòng trọ của mình ở tổ dân phố 11, thị trấn R, huyện Q, tỉnh Đắk Lắk đến lô cao su thuộc thị trấn R, huyện Q. Tại đây, N gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua 2.000.000 đồng tiền ma túy thì người đàn ông này đồng ý bán và đưa lại cho N 01 gói ma túy. Sau khi mua được ma túy, N đi về phòng trọ của mình, chia gói ma túy vừa mua được thành 02 phần, gói trong 02 gói nylon không màu rồi cất giấu tại phòng trọ để sử dụng cho bản thân và bán lại cho người khác kiếm lời. Đến khoảng 15 giờ ngày 06/8/2020, N cầm 01 gói ma túy rồi bắt taxi đi đến nhà nghỉ 233 ở tổ dân phố 02, thị trấn R, huyện Q để gặp bạn. Khi N đang đứng tại sân nhà nghỉ 233 thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo phát hiện và bắt quả tang, thu giữ 01 gói nylon không màu bên trong có chứa ma túy. Khám xét khẩn cấp phòng trọ của Trần Thị N ở tổ dân phố 11, thị trấn R, huyện Q, N tự nguyện lấy từ trong túi quần treo trong phòng trọ ra 01 gói nylon không màu bên trong có chứa ma túy.
Tại kết luận giám định số: 748/GĐMT-PC09 ngày 14 tháng 8 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Phong bì M1: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3420 gam, loại Methamphetamine; Phong bì M2: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,8873 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì ký hiệu M1 có khối lượng 0,3288 gam, trong phong bì M2 có khối lượng 1,8360 gam.
Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã thu giữ 01 gói nylon không màu chứa 0,3420 gam ma túy, loại Methamphetamine (kí hiệu M1) và 01 gói nylon không màu chứa 1,8873 gam ma túy, loại Methamphetamine (kí hiệu M2). Mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì ký hiệu M1 có khối lượng 0,3288 gam, trong phong bì M2 có khối lượng 1,8360 gam.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo Trần Thị N khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện của mình như đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Công an tỉnh Đăk Lắk đã nói trên.
Tại bản Cáo trạng số 97/CT-VKS, ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’leo truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo để xét xử đối với bị cáo Trần Thị N về tội “Mua bán phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Qua phần tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên đưa ra các chứng cứ buộc tội và đánh giá tính chất mức, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Đồng thời vẫn giữ nguyên toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo N nói trên, đưa ra các tình tiết về trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Trần Thị N từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 46 và 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự : Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 0,3288 gam và 1,8360 gam ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định.
Đối với bà Nguyễn Thị S chủ nhà nghỉ 233 và bà Phạm Thị V chủ phòng trọ nơi Trần Thị N bị bắt quả tang và khám xét, việc N tàng trữ trái phép chất ma túy thì bà S và bà V không biết nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với ngươi đàn ông đa ban ma túy cho Trần Thị N trong quá trình điều tra không xac đinh đươc nhân thân lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.
Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và cũng không tranh luận gì thêm với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Bị cáo trình bày lời nói sau cùng: bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ea H’leo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’leo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Vào lúc 15 giờ 30 phút, tại tổ dân phố 02, thị trấn R, huyện Q, khi Trần Thị N đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo phát hiện, bắt quả tang. Tang vật thu giữ trong tay trái của N 01 gói nylon không màu chứa 0,3420 gam ma túy, loại Methamphetamine. Tiến hành khám xét khẩn cấp tại phòng trọ của N tại tổ dân phố 11, thị trấn R, thu giữ 01 gói nylon không màu chứa 1,8873 gam ma túy, loại Methamphetamine, N khai nhận cất giấu số ma túy trên để sử dụng cho bản thân và bán lại cho người khác kiếm lời.
năm.” Tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 Như vậy, căn cứ vào khối lượng ma túy đã được xác định là loại Methamphetamine thu giữ được của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Hành vi của bị cáo Trần Thị N đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự như đã viện dẫn nêu trên.
Xét thấy, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ nhận thức để biết được việc làm của mình là vi phạm pháp luật và gây tác động xấu đối với xã hội. Thế nhưng, do động cơ hám lợi và ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, ngoài việc xâm hại đến các chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý chất ma túy còn góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy tại địa phương và là nguồn gốc phát sinh của nhiều loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Trong tình hình hiện nay trên địa bàn huyện Q, tình trạng mua bán trái phép chất ma túy đang diễn ra rất tinh vi phức tạp và có chiều hướng gia tăng mạnh.
Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian, nhằm tác dụng trừng trị, đồng thời cải tạo, giáo dục bị cáo để bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội cũng như biết tôn trọng pháp luật. Ngoài ra, còn đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa chung, phục vụ cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy tại địa phương.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật Nhà nước.
Đối với bà Nguyễn Thị S chủ nhà nghỉ 233 và bà Phạm Thị V chủ phòng trọ nơi Trần Thị N bị bắt quả tang và khám xét, việc N tàng trữ trái phép chất ma túy thì bà S và bà V không biết nên không có căn cứ để xử lý là phù hợp.
Đối với ngươi đàn ông đa ban ma túy cho Trần Thị N, trong quá trình điều tra không xac đinh đươc nhân thân lai lịch nên không có căn cứ để xử lý là phù hợp.
Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, nên cần chấp nhận.
[3] Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 46 và 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần:
Tịch thu tiêu hủy 0,3288 gam và 1,8360 gam ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định.
[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Trần Thị N 03 (ba) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án, được khấu trừ vào thời hạn bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 06/8/2020 đến ngày 15/8/2020 là 09 ngày. Thời hạn phạt tù bị cáo còn phải chấp hành là 02 (hai) năm 11 (mười một) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày tù.
Về xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 46 và 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy 2,1648 gam ma túy, loại Methamphetamine (gồm 0,3288 gam cộng với 1,8360 gam) còn lại sau giám định.
(Đặc điểm vật chứng được mô tả tại biên bản thu giữ, giao nhận vật chứng lưu tại hồ sơ vụ án).
Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Trần Thị N phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết công khai bản án.
Bản án 95/2020/HSST ngày 22/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 95/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về