TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 133/2020/HSST NGÀY 25/08/2020 VỀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 08 năm 2020, tại Toà án nhân dân Quận Tây Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 156/2020/HSST ngày 06 tháng 08 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2020/QĐXX-HSST ngày 14 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo: Ngô Việt Tr. - sinh năm: 1987; HKTT: số 21 tổ 29 phường D., quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: không; Con ông: Ngô Văn L. và Con bà: Nguyễn Thị H.; Theo danh chỉ bản số 198 lập ngày 30 tháng 3 năm 2020 của công an quận Tây Hồ thì Tiền án: Có 02 tiền án; Bản án số 160/2014/HSST ngày 19.12.2014, TAND quận Bắc Từ Liêm xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chưa thi hành phần dân sự 1.400.000 đồng; Bản án số 137/2018/HSST ngày 12.09.2018, TAND quận Bắc Từ Liêm xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (tài sản trị giá 1.000.000 đồng); Tiền sự: Ngày 19.04. 2018, Công an quận Bắc Từ Liêm xử phạt hành chính hành vi Tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị bắt quả tang ngày 26 tháng 03 năm 2020, hiện đang tạm giam tại trại giam số 1 Công an TP Hà nội - Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18h30 ngày 26/03/2020, Ngô Việt Tr. nhận được cuộc gọi từ số điện thoại 0833650365 của một người tên Tr2. nhờ Tr. mua 10 (mười) viên ma túy kẹo và nửa chỉ ma túy ketamine thì Tr. đồng ý và cả hai hẹn giao dịch ở khách sạn Phương Anh – số 2 ngõ 236 Âu Cơ, Tây Hồ, Hà Nội. Lúc này, do đã có sẵn số ma túy này trong người nên Tr. đã cất giấu số ma túy như Tr2. yêu cầu vào một bao giấy màu đỏ hình chữ nhật và điều khiển xe máy Honda Wave BKS: 29H2 – 124.63 đi giao ma túy cho Tr2.. Trên đường đi, Tr. có đón bạn gái mình là Cao Thị Ph. tại ngã tư Cổ Nhuế để cùng đi ăn tối, rồi chở Ph. đến số 2 ngõ 236 Âu Cơ.
Đến nơi, khi Tr. và Ph. đang ngồi trên xe để đợi gặp Tr2. thì bị cơ quan công an kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, Ngô Việt Tr. đã tự tay lấy từ trong túi quần phía trước bên phải đang mặc ra giao nộp cho cơ quan công an 01 (một) bao giấy màu đỏ, bên trong chứa 10 (mười) viên nén màu xám và 01 (một) gói nilon màu trắng chứa các hạt tinh thể màu trắng. Đồng thời Tr. cũng tự khai nhận với cơ quan công an đó là ma túy “kẹo” và “ke” mà Tr. đang mang đi bán cho khách để kiếm lời. Cơ quan công an đã lập biên bản niêm phong thu giữ số tang vật này để làm rõ.
Công an thu giữ của Ngô Việt Tr.: Một bao giấy màu đỏ bên trong chứa: Mười viên nén màu xám; Một gói nilon màu trắng chứa các hạt tinh thể màu trắng; Một ví giả da màu đen đã qua sử dụng; Một điện thoại di động Nokia màu đen đã qua sử dụng; Một căn cước công dân mang tên Ngô Việt Tr.; Một điện thoại di động nhãn hiệu iPhone màu xám đã qua sử dụng; Một xe máy Honda Wave BKS:
29H2 – 124.63; 224.000đ (hai trăm hai mươi tư nghìn đồng).
Giám định tại phòng PC09 CATP Hà Nội xác định được:
- Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon là ma túy loại Ketamine, khối lượng: 0,791 gam.
- 10 viên nén màu xám đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng: 4,992gam.
Kiểm tra chiếc điện thoại di động iPhone của Tr. không phát hiện nội dung gì liên quan đến vụ án. Kết quả xét nghiệm nước tiểu của Ngô Việt Tr. cho kết quả dương tính với ma túy tổng hợp. Tiến hành khám xét chỗ ở của Ngô Việt Tr. tại số 21 tổ 29 D., Cầu Giấy, Hà Nội không phát hiện thu giữ được gì liên quan đến tội phạm.
Tại Cơ quan điều tra Ngô Việt Tr. khai mua ma túy thuốc lắc với giá 300.000đ/viên (10 viên là 3.000.000đ) và định bán cho Tr2. với giá 350.000đ/viên ; số ma túy ketamine Tr. mua với giá 1.500.000đ và chưa có ý định tính lời lãi gì với số ma túy này nên nếu bán trót lọt hết số ma túy này Tr. sẽ được lãi khoảng 500.000đ. Nguồn gốc số ma túy này của Tr. là do Tr. mua của một người phụ nữ tại khu vực bến xe buýt đối diện trường đại học giao thông vận tải với giá là 4.500.000đ (10 viên ma túy kẹo giá 3.000.000đ và nửa chỉ ma túy ketamin giá 1.500.000đ) vào ngày 25/03/2020.
Cơ quan công an đã tiến hành dẫn giải Tr. đi xác định vị trí mua ma túy và rà soát đối tượng nữ bán ma túy cho Tr.. Kết quả xác định được vị trí Tr. mua ma túy là tại trước cổng công viên Thủ Lệ, đối diện với trường đại học giao thông vận tải thuộc phường Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội nhưng không xác định được đối tượng nữ đã bán ma túy cho Tr. có đặc điểm nhận dạng như Tr. mô tả, nên không có cơ sở để xử lý.
Đối với người tên Tr2. hỏi mua ma túy của Tr., Tr. chỉ quen biết qua về Tr2. ngoài xã hội và mô tả Tr2. là một người phụ nữ khoảng 25 tuổi, cao khoảng 1m60, nhà ở Long Biên, Hà Nội. Ngoài ra Tr. không biết gì khác về Tr2. và đây là lần đầu tiên Tr. mang ma túy đến bán cho Tr2. nên không có căn cứ gì để xác định đối tượng này. Tr. chỉ biết Tr2. dùng số điện thoại 0833650365 để gọi cho Tr..
Kiểm tra chiếc điện thoại di động Nokia của Tr. (số thuê bao 0344619999) phát hiện có các nội dung tin nhắn, cuộc gọi với số điện thoại 0833650365, nên Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh đối với số điện thoại của Tr. và của người hỏi mua ma túy của Tr. tại nhà mạng Viettel và Vinaphone. Kết quả tra cứu lịch sử cuộc gọi thấy có các cuộc trao đổi giữa hai số điện thoại này nhưng không có thông tin cụ thể của chủ thuê bao cỏc số điện thoại trờn nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh chủ thuê bao.
Cơ quan công an đã tiến hành rà soát ở khách sạn Phương Anh – Số 2 ngõ 236 Âu Cơ, Quảng An, Tây Hồ, Hà Nội, nhưng không phát hiện được ai tên Tr2.
có đặc điểm mô tả và sử dụng số điện thoại như trên, nên không có cơ sở để mở rộng điều tra xử lý đối tượng Tr2..
Đối với Cao Thị Ph., người đi cùng Tr. đến khu vực ngõ 236 Âu Cơ, Tr. khai nhận Ph. là bạn xã hội quen biết nhau khoảng hai tháng nay. Ph. hoàn toàn không biết gì về việc Tr. mang theo ma túy trong người và đi đến ngõ 236 Âu Cơ để bán ma túy cho khách kiếm lời.
Cao Thị Ph. khai là bạn gái của Tr., hai người quen biết nhau từ khoảng 02 tháng này. Ngày 26.03.2020, Ph. có hẹn với Tr. nên bắt xe khách đi từ Bắc Giang ra Hà Nội chơi và được Tr. đón ở khu vực ngã tư Cổ Nhuế để cùng đi ăn. Sau đó, Tr. nói với Ph. đi cùng mình ra đây một lát, Ph. đi cùng nhưng không biết việc Tr. mang theo ma túy trong người đi bán cho khách. Xét nghiệm nước tiểu của Ph. cho kết quả âm tính với ma túy, nên Cơ quan điều tra không đề cập việc xử lý.
Đối với chiếc xe máy Honda BKS 29.H2-12463, Cơ quan điều tra xác định được, Ngô Việt Tr. mượn của bạn là Võ Ngọc Th. (Sinh năm 1985 – Tr. không biết nơi cư trú của Th.). Chủ sở hữu theo đăng ký là chị Phạm Thị Minh Tr3. (Sinh năm 1971 – Trú tại Tổ 1x, phường M., quận Hoàng mai, Hà Nội), xe không nằm trong dữ liệu xe vật chứng cần thu giữ, Cơ quan công an cũng đã tiến hành giám định số khung số máy, ngày 28.04.2020, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hà Nội xác định xe có số khung số máy nguyên thủy. Chị Tr3. khai cho anh Võ Ngọc Th. là bạn mượn xe, chị Tr3. cũng chỉ biết tên và năm sinh của anh Th., không biết địa chỉ nơi cư trú của anh Th.. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm anh Th. để giải quyết việc liên quan đến chiếc xe máy nêu trên, nhưng chưa tìm được nên ngày 17.07.2020, Cơ quan điều tra đã cho tách chiếc xe máy nêu trên khỏi hồ sơ vụ án để giải quyết bằng thủ tục hành chính khác.
Tại bản cáo trạng số 150/CT-VKS ngày 05/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ đã truy tố bị cáo Ngô Việt Tr. phạm tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.Tại phiên tòa, đại diện VKSND quận Tây Hồ giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 (tái phạm) Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đề nghị hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Ngô Việt Tr. từ 08 (tám) năm tù đến 09 (chín) năm tù.
Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy: Mười viên nén màu xám; Một gói nilon màu trắng chứa các hạt tinh thể màu trắng; Một ví giả da màu đen đã qua sử dụng;
Tịch thu sung công quỹ nhà nước: Một điện thoại di động nhãn hiệu iPhone màu trắng đã qua sử dụng; 01 điện thoại Nokia màu đen; số tiền 224.000 đồng (hai trăm hai mươi tư nghìn đồng).
Trả lại cho bị cáo một căn cước công dân mang tên Ngô Việt Tr..
Bị cáo nói lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo xác định có tội, đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an quận Tây Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, qua xét hỏi và tranh luận bị cáo Ngô Việt Tr. khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của nhân chứng, người liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án là khoảng 18h30 ngày 26.03.2020, Ngô Việt Tr. có hành vi mua ma túy để bán lại cho người khác nhằm hưởng lợi. Khối lượng ma túy Tr. mua bán trái phép là 0,791 gam ma túy loại Ketamine và 4,992 gam ma túy loại MDMA. Bị can chưa kịp bán số ma túy trên thì bị Công an phường Nhật Tân, quận Tây Hồ phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Tổng khối lượng ma theo hướng dẫn quy đổi ma túy quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 19/2018/NĐ-CP thì đủ cơ sở để kết luận bị cáo Ngô Việt Tr. phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ma tuý là một hiểm hoạ mà cả nhân loại đang ra sức loại trừ khỏi đời sống xã hội, nó làm ảnh hưởng tới sức khoẻ và kinh tế gia đình, làm huỷ hoại nhân cách con người và phát sinh nhiều tội phạm hình sự khác. Ma tuý là nguyên nhân lây lan căn bệnh HIV/AIDS vô phương cứu chữa.Vì tham lam tư lợi nên bị cáo đã phạm tội, việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết có tính chất răn đe và phòng ngừa chung.
Với những phân tích trên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe và giáo dục bị cáo.
[3] Về nhân thân: Bị cáo có 02 tiền án, Bản án số 160/2014/HSST ngày 19.12.2014, TAND quận Bắc Từ Liêm xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chưa thi hành phần dân sự 1.400.000 đồng chưa được xóa án tích nên khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản trị giá 1.000.000 đồng nên tại bản án số 137/2018/HSST ngày 12.09.2018, TAND quận Bắc Từ Liêm xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản đã xác định là tình tiết định tội. Bản án số 137/2018/HSST ngày 12.09.2018 đến nay chưa được xáo án tích nên lần này bị cáo phạm tội là tái phạm - là tình tiết định tang nặng theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 (tái phạm) Bộ luật hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ sau: Tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về xử lý vật chứng:
Đối với mười viên nén màu xám; Một gói nilon màu trắng chứa các hạt tinh thể màu trắng; Một ví giả da màu đen đã qua sử dụng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với một điện thoại di động nhãn hiệu iPhone màu trắng đã qua sử dụng;
01 điện thoại nokia màu đen; số tiền 224.000 đồng (hai trăm hai mươi tư nghìn đồng) cần áp dụng khoản 5 Điều 251 bộ luật hình sự tịch thu sung công quỹ nhà nước:
Trả lại cho bị cáo một căn cước công dân mang tên Ngô Việt Tr..
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Ngô Việt Tr. phạm tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
- Áp dụng Điều 329; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Bị cáo Ngô Việt Tr. 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 26 tháng 03 năm 2020.
3. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy: 01 bao niên phong có chữ ký của Ngô Việt Tr., giám định viên và cán bộ niêm phong; Một ví giả da màu đen đã qua sử dụng không còn giá trị sử dụng.
Tịch thu sung công quỹ nhà nước: một điện thoại di động nhãn hiệu iPhone màu trắng đã qua sử dụng, không kiểm tra imei; 01 điện thoại Nokia màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra imei.
Trả lại cho bị cáo một căn cước công dân mang tên Ngô Việt Tr..
Số tang vật nêu trên hiện đang lưu giữ tại chi cục Thi hành án dân sự quận Tây Hồ theo biên bản giao vật chứng ngày 24/7/2020.
Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 224.000 đồng hiện đang lưu giữ tại kho bạc nhà nước quận Tây Hồ theo biên bản giao nhận tài sản số 44/20042/BBGN-KBNN.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 133/2020/HSST ngày 25/08/2020 về mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 133/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về