Bản án 95/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ- TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 95/2020/HS-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 93/2020/TLHS- HS ngày 16 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L (tên gọi khác: Nguyễn Xuân L), sinh năm 1980 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn Đ, xã L, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn U (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Kiều Thị A, sinh năm 1982 và 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 20/9/2011 Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hà Nam xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và ngày 27/10/2014 Tòa án nhân dân huyện U, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Chấp hành xong ngày 30/02/2017); Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 11/5/2020 và chuyển tạm giam từ ngày 17/5/2020 đến nay; Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Kiều Thị A, sinh năm 1982; Trú tại: Thôn Đ, xã L, huyện K, tỉnh Hà Nam; Có mặt.

* Người làm chứng:

- Anh Trần Nam T, sinh năm 1979; Vắng mặt.

- Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1992; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 11/5/2020, tổ công tác Đội CSĐT tội phạm về ma túy – Công an thành phố Phủ Lý làm nhiệm vụ tại khu vực xóm 2, xã L, thành phố P phát hiện một nam giới khoảng 40 tuổi đứng cạnh chiếc xe mô tô biển kiểm soát 90H6-3323 màu nâu có biểu hiện nghi vấn liên quan đến tội phạm về ma túy nên yêu cầu kiểm tra. Người nam giới tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu xanh đen bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng có chứa chất bột màu trắng dạng cục và khai tên là Nguyễn Văn L đồng thời khai nhận gói giấy bạc màu vàng trên là gói ma túy của L, mục đích để sử dụng. Lực lượng công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn L. Thu giữ vật chứng gồm:

- 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01.

- 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu xanh đen.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Wiko số IMEI: 358115006353647.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Rooney, màu nâu, biển kiểm soát: 90H6-3323.

- 01 đăng ký xe mô tô số 041522 mang tên Nguyễn Bá T.

- 01 ví giả da màu nâu.

- 01 thẻ điều trị Methadol mang tên Nguyễn Xuân L.

Ngày 11/5/2020, Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Nguyễn Văn L. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 73/PC09-MT ngày 14/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Hà Nam kết luận:“ Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,119g (Không phảy một trăm mười chín gam) loại:Heroine”.

Tại bản cáo trạng số 97/CT-VKS-PL ngày 14/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Nguyễn Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long mà xanh, đen; trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu hiệu Wiko số IMEI: 358115006353647, 01 ví giả da màu nâu, 01 thẻ điều trị Methadol mang tên Nguyễn Xuân L; trả lại chị Kiều Thị A 1/2 giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu Rooney, màu nâu, biển kiểm soát: 90H6-3323; tịch thu sung ngân sách Nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu Rooney, màu nâu, biển kiểm soát: 90H6-3323.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Rooney, màu nâu, biển kiểm soát: 90H6-3323, bị cáo xác định là tài sản chung của vợ chồng bị cáo. Còn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Wiko là tài sản riêng của chị Kiều Thị A (vợ bị cáo), chị A cho bị cáo mượn để liên lạc, nay bị cáo đề nghị trả lại chiếc điện thoại này cho chị A.

- Chị Kiều Thị A có quan điểm: Chị là vợ của bị cáo L, chiếc xe mô tô biển kiểm soát 90H6-3323 là tài sản chung của chị và bị cáo L, chị không biết bị cáo sử dụng chiếc xe này làm phương tiện phạm tội. Nay chị đề nghị cho chị xin lại chiếc xe để sử dụng. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Wiko mà Công an thu của bị cáo là tài sản riêng của chị, chị đưa cho bị cáo mượn để liên lạc với gia đình, nay chị đề nghị cho chị xin lại để sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với: biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 11/5/2020, tại xóm 2, xã L, thành phố P, Nguyễn Văn L cất giữ trái phép 0,119 gam chất ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng CSĐT tội phạm về ma túy – Công an thành phố Phủ Lý phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân rất xấu, có 02 tiền án về tội phạm ma túy (vừa được xóa án tích) nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân, nay lại phạm tội nghiêm trọng về ma túy thể hiện thái độ coi thường bất chấp pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

- Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân là lao động tự do, mục đích tàng trữ để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đánh giá tình tiết khác của vụ án:

Về nguồn gốc số ma túy và người đã đưa ma túy cho L: Quá trình điều tra không đủ căn cứ để xác định được nguồn gốc số ma túy và người đã đưa số ma túy này cho L nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[7] Xử lý vật chứng:

- Đối với số Heroine trong phong bì niêm phong hoàn trả sau giám định cùng toàn bộ bao gói mẫu vật thu giữ của bị cáo được hoàn trả sau giám định là vật chứng của vụ án và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu xanh đen không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Wiko. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản riêng của chị Kiều Thị A (vợ bị cáo), chị A cho bị cáo mượn để liên lạc và chiếc điện thoại này không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho chị A chiếc điện thoại này là phù hợp.

- Đối với 01 ví giả da màu nâu và 01 thẻ MMT mang tên Nguyễn Xuân L. Quá trình điều tra xác định là tài sản, giấy tờ hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại bị cáo.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Rooney, màu nâu, biển kiểm soát: 90H6- 3323 thu giữ của bị cáo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân của bị cáo và vợ là chị Kiều Thị A. Do bị cáo đã sử dụng chiếc xe này để phạm tội. Tuy chị A có đề nghị xin lại chiếc xe này nhưng Hội đồng xét xử xem xét thấy cần tịch thu, sung ngân sách Nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo, 1/2 giá trị chiếc xe còn lại là tài sản hợp pháp của chị Kiều Thị A sẽ trả lại cho chị A.

- Đối với 01 đăng ký mô tô xe máy số 041522 mang tên Nguyễn Bá T, địa chỉ: N, D, D, Hà Nam. Đây là giấy tờ kèm theo xe mô tô biển kiểm soát 90H6- 3323 nên khi tịch thu, sung ngân sách Nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe trên cần tịch thu kèm theo đăng ký mô tô xe máy này.

[8] Về án phí: Bị cáo thực hiện theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ Luật Phí và Lệ phí của Quốc hội.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L (tên gọi khác: Nguyễn Xuân L) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L (tên gọi khác: Nguyễn Xuân L) 39 (Ba mươi chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/5/2020.

[3] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy:

+01 (một) phong bì đã niêm phong số 73/PC09-MT mặt trước phong bì ghi mẫu vật hoàn trả QT01 tại mép dãn mặt sau có các chữ ký của Nguyễn Thị Lan H, Lưu Thị Ngọc A, một chữ ký đóng dấu chức danh Trưởng phòng Thượng tá Nguyễn Đại H và ba dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

+ 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu xanh, đen.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Văn L: 01 (một) thẻ MMT mang tên Nguyễn Xuân L; 01 (một) ví giả da màu nâu đã cũ.

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu ROONEY, màu nâu, biển kiểm soát 90H6-3323, số khung: 8A013797, số máy: 013797 tại thời điểm thi hành án, kèm theo 01 (một) đăng ký mô tô xe máy số 041522 mang tên Nguyễn Bá T, địa chỉ: N, D, D, Hà Nam.

- Trả lại chị Kiều Thị A: 01 (một) chiếc điện thoại di động màu xanh, nhãn hiệu WiKO, có số IMEI: 355811102424810/00 và 1/2 giá trị chiếc xe máy nhãn hiệu ROONEY, màu nâu, biển kiểm soát 90H6-3323, số khung: 8A013797, số máy: 013797 tại thời điểm thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 20/7/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý).

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2020/HS-ST ngày 11/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:95/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về