Bản án 18/2021/HSST ngày 12/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT- TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 18/2021/HSST NGÀY 12/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 428/2020/HSST, ngày 08 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 459/2020/QĐXXST- HS ngày 29 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: NGUYỄN HOÀNG PHI H (Nguyễn Phi H); Giới tính: Nam; Sinh năm 1976; Tại: tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Nguyễn Văn T (Đã chết) và bà Bùi Thị B; Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Mỹ T (Đã ly hôn) và có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự:

- Tại bản án tại số 117/2014/HSST ngày 20 tháng 5 năm 2014, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” (Tài sản chiếm đoạt có giá trị 850.000đ); ngày 08/5/2015 chấp hành xong hình phạt tù;

- Tại bản án 218/2016/HSST ngày 09 tháng 9 năm 2016, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; ngày 15/01/2019 chấp hành xong hình phạt tù, chưa thi hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm;

Nhân thân:

- Tại bản án số 85/HSST/1999 ngày 09 tháng 01 năm 1999, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm tù về tội: “Cưỡng đoạt tài sản”; ngày 27/6/2000 chấp hành xong hình phạt tù;

- Tại bản án 96/2010/HSST ngày 24 tháng 11 năm 2010, bị Tòa án nhân dân huyện Ea H’leo xử phạt 09 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; ngày 05/5/2011 chấp hành xong hình phạt tù;

- Ngày 16/11/2011, có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 500.000đ;

- Tại Quyết định số 7403/QĐ- UBND ngày 12 tháng 12 năm 2011, bị Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đưa vào trung tâm giáo dục Lao động xã hội tỉnh Đắk Lắk thời gian 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, giam từ ngày 22/9/2020 đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

01. Ông Vũ Thanh L- Sinh năm 1982 (Vắng mặt);

Địa chỉ: Tổ dân phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;

02. Ông Trần Minh C- Sinh năm 1975 (Vắng mặt);

Địa chỉ: Đường T, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Hoàng Phi H là đối tượng nghiện chất ma túy loại Heroine từ năm 2005 đến nay. Vào khoảng 10 giờ 00 ngày 31/3/2020, H cùng với Trần Minh C, Vũ Thanh L rủ nhau mỗi người góp số tiền 100.000đ (một trăm ngàn đồng) để đi đến xã P, thành phố B, tìm mua ma túy sử dụng. Khi đi, H mang theo 01 vỉ thuốc màu bạc chưa qua sử dụng có 07 viên thuốc dạng con nhộng, màu đỏ - trắng, in chữ “Morphin 30mg – morphin sulfat 30mg” mà H được một người nam giới tên T (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) cho cách đó nửa tháng với mục đích là sử dụng thay thế tạm thời khi không có ma túy. Việc H cất giấu vỉ thuốc này thì C và L không biết. Sau khi góp được số tiền tổng cộng là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) thì C đi đến khu vực xã P, thành phố B gặp một người đàn ông tên B (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) mua được 01 gói ma túy Heroine. Sau đó, cả ba cùng nhau đi đến khu vực cầu A thuộc xã P, thành phố B để cùng nhau sử dụng ma túy. Khi cả ba vừa sử dụng ma túy xong thì bị Công an xã P tuần tra kiểm tra phát hiện tạm giữ ở túi quần phía trước bên phải của H 01 vỉ thuốc màu bạc chưa qua sử dụng có 07 viên thuốc dạng con nhộng, màu đỏ - trắng, in chữ “Morphin 30mg – morphin sulfat 30mg” và tiến hành niêm phong trong một phong bì thư có các chữ ký ghi tên Nguyễn Hoàng Phi H, Trần Minh C và Vũ Thanh L và đóng dấu tròn đỏ của Công an xã P, thành phố B;

Tại bản kết luận giám định số 417 ngày 07/5/2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Chất rắn màu trắng dạng bột trong 07 viên dạng con nhộng, màu đỏ - trắng gửi giám định đều có Morphine, tổng khối lượng mẫu chất rắn màu trắng dạng bột là 1,81gam; hàm lượng Morphine trung bình là 8,1%.

Tại bản cáo trạng số: 07/CT- VKSTPBMT, ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng Phi H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự;

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng Phi H khai nhận hành vi bị cáo đã thực hiện đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và đúng như nội dung Bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng Phi H như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Phi H mức án từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng đến 02 (Hai) năm tù;

c biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu, tiêu hủy 1,47 gam chất gắn dạng bột; 0,55 gam vỏ nhộng màu đỏ- trắng còn lại sau giám định trong gói niêm phong số: 417/C09C (DD4) của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng;

- Tuyên trả cho bị cáo Nguyễn Hoàng Phi H một chiếc điện thoại di động hiệu Wiko màu đen, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án;

Bị cáo không tranh luận gì đối với quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì về hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng;

[2] Về hành vi của bị cáo, xét thấy: Vào khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 31/3/2020, tại khu vực cầu A thuộc xã P, thành phố B, Nguyễn Hoàng Phi H có hành vi tàng trữ trái phép 1,81gam chất rắn màu trắng dạng bột có chứa Morphin; hàm lượng Morphine trung bình là 8,1% (Morphin thuộc danh mục IIA “Các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của Cơ quan có thẩm quyền” Nghị định 73/2018/NĐ- CP ngày 15/5/2018), mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Như vậy hành vi bị cáo Nguyễn Hoàng Phi H thực hiện đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự;

Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định:

1. “ Người nào tàng trừ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại điều các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;” …”.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, không những đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại dược chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương; hơn nữa, tác hại của ma túy đến sức khỏe của con người là rất lớn, là một trong những nguyên nhân dẫn đến căn bệnh chết người HIV/AIDS và cũng là nguyên nhân làm là gia tăng các loại tội phạm hình sự khác như “Trộm cắp tài sản”, “Cướp giật tài sản”... Bị cáo là người đã có tiền án về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện tội phạm; do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do lỗi cố ý gây ra; và cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội;

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nhằm thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta;

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Hoàng Phi H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp;

Đối với nguồn gốc ma tuý, bị cáo H khai người nam giới tên T cho và người nam giới tên B bán ma túy; đến nay Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột vẫn chưa xác định được nhân thân, lai lịch của các đối tượng này nên đã tách hành vi của đối tượng trên ra khỏi vụ án, tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

3] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 1,47 gam chất gắn dạng bột; 0,55 gam vỏ nhộng màu đỏ- trắng còn lại sau giám định trong gói niêm phong số: 417/C09C (DD4) của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng là chất độc dược gây nghiện, Nhà nước cấm tàng trữ, mua bán nên cần tịch thu, tiêu hủy;

- Đối với một chiếc điện thoại di động hiệu Wiko màu đen thu giữ của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên cần tuyên trả cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án;

(Đặc điểm, số lượng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Buôn Ma Thuột và Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột);

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hoàng Phi H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Phi H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, ngày 22/9/2020;

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu, tiêu hủy 1,47 gam chất gắn dạng bột; 0,55 gam vỏ nhộng màu đỏ- trắng còn lại sau giám định trong gói niêm phong số: 417/C09C (DD4) của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng;

- Tuyên trả cho bị cáo Nguyễn Hoàng Phi H một chiếc điện thoại di động hiệu Wiko màu đen, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án;

(Đặc điểm, số lượng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Buôn Ma Thuột và Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột).

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Nguyễn Hoàng Phi H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

833
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HSST ngày 12/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về