Bản án 95/2020/HS-ST ngày 08/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 95/2020/HS-ST NGÀY 08/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở, Tòa án nhân dân quận C, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 64/2020/TLST- HS ngày 13 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81 /2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Văn D; sinh ngày 15 tháng 12 năm 1995; Nơi sinh: Hải Dương; HKTT tại tổ 3, phường C, thành phố S, tỉnh S; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Lê Văn T (sinh năm 1974) và con bà: Đào Thị G ( sinh năm 1976); Tiền án, tiền sự: Ngày 10/12/2019, Cơ quan CSĐT- Công an quận T quyết định khởi tố bị can đối với Lê Văn D về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 27/2/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận T đã ban hành Cáo trạng truy tố Lê Văn D về tội “ Trộm cắp tài sản”; bị cáo đầu thú ngày 29/12/2019- hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa

*Người bị hại:

Chị Nguyễn Thị H- sinh năm 2000, HKTT tại thôn Đ, xã P, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang- vắng mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16h ngày 22/12/2019, Lê Văn D đi lang thang để trộm cắp tài sản, khi đến trước cửa siêu thị Circle K, địa chỉ số 28 N,phường D, quận C, thành phố Hà Nội, D thấy một chiếc xe máy điện nhãn hiệu Before All 133F, màu đỏ đen, không biển kiểm soát của chị Nguyễn Thị H ( sinh năm 2000, HKTT tại thôn Đ, xã P, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang) dựng trên vỉa hè, đầu xe quay vào trong, đuôi xe quay ra ngoài, không khóa cổ, khóa càng, không có người trông giữ. D lại gần, gạt chân chống, dắt lùi xe xuống đường rồi dắt bộ đến khu vực H giao với T. Tại đây, D gặp một người đàn ông sửa khóa ( không xác định được nhân thân, lai lịch), D nói bị mất chìa khóa điện và thuê đánh hết 80.000 đồng. Khi làm xong chìa khóa, Duy mở cốp xe thấy bên trong có một bộ sạc điện và một chiếc biển kiểm soát 22MDD1-027.76. Sau đó, D điều khiển xe đến khu vực bãi rác đầu đường D, phường Q, thì vứt bỏ chiếc biển kiểm soát trên rồi đi đến tòa nhà số 139 C, gửi xe ở tầng hầm, đi lên quán G ở tầng 3B lên mạng facebook nick “ Anh Le Duy” tìm kiếm nick facebook “ Mua bán sửa chữa xe đạp điện Kim Ngân” của chị Lê Thị Hồng H ( sinh năm 1990, HKTT tại xóm 11, xã X,huyện X, tỉnh Nam Định) kinh doanh mua bán xe đạp, xe máy điện tại địa chỉ số 9/277 Q, quận C, thành phố Hà Nội. D nhắn tin trao đổi nội dung mua bán xe máy điện cho chị H số điện thoại 0869.925.502 để liên lạc. Sau đó chị H bảo anh Phan Ngọc T ( sinh năm 1998, HKTT tại xã X, huyện X, tỉnh Nam Định) là nhân viên cửa hàng liên hệ với D. Anh T liên hệ với D qua số điện thoại trên và hẹn gặp tại số 139 C để xem xe. Khi đến địa chỉ trên, D dẫn anh T xuống hầm gửi xe và dắt chiếc xe máy điện trên cho anh T xem. Sau đó, D bán chiếc xe máy trên cho anh T được 1.800.000 đồng. Số tiền này D đã tiêu xài cá nhân hết 650.000 đồng, còn lại 1.150.000 đồng.

Sau khi phát hiện mất xe, sáng ngày 23/12/2019 chị H đến Công an phường D, quận C, thành phố Hà Nội trình báo.

Ngày 25/12/2019 khi vào diễn đàn trao đổi, mua bán xe máy điện cũ trên facebook để đăng tin tìm mua xe, chị H thấy anh Vũ Văn T ( sinh năm 1987, HKTT tại xã X, huyện X, tỉnh N) đăng tin rao bán chiếc xe máy điện có đặc điểm giống với chiếc xe mình mất trộm. Chị H liền đến cửa hàng của anh T ở địa chỉ số 9/277 Q, quận C, thành phố Hà Nội để xem xe và nhận ra chiếc xe máy điện anh T đang rao bán là xe của mình. Sau đó chị H đã đến Công an phường D trình báo. Ngày 29/12/2019 khi D đến quán G ở địa chỉ số 139 C thì được quản lý game là anh Quản Văn P thông báo Công an đang tìm D vì có liên quan đến trộm cắp tài sản nên D đã đến Công an phường D xin đầu thú.

Cơ quan điều tra đã thu giữ của D: 01 áo khoác màu đen, phía trước trái có chữ “CKSINCE” màu vàng, có mũ, có lót bên trong màu vàng, 01 quần dài thể thao màu đen, dọc hai bên ống quần có kẻ sọc trắng D đang mặc trên người, số tiền 1.150.000 đồng, 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 1202 màu đen số sim 0869.925.502.

Kết luận định giá số 577/TCKH-BBĐGHĐ ngày 30/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận C kết luận 01 xe máy điện nhãn hiệu Before All màu đỏ BKS 22MDD1-027.76 có giá trị 4.150.000 đồng.

Chiếc xe máy điện nhãn hiệu Before All 133F, màu đỏ đen qua quá trình xác minh xác định đăng ký xe mang tên Đặng Tuấn T, là bác ruột của chị H. Tháng 3/2016 chị H mua xe và nhờ ông T đứng tên đăng ký hộ. Ông T đề nghị cơ quan Công an trao trả xe cho chị H và không có yêu cầu đề nghị gì.

Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy điện trên cho chị H, chị H không có yêu cầu đề nghị gì khác.

Đối với số tiền 1.800.000 đồng, là tiền bán xe máy điện D trộm cắp được của chị H, D đã chi tiêu hết 650.000 đồng, còn lại 1.150.000 đồng, D đã giao nộp tại cơ quan Công an.

Đối với chiếc điện thoại Nokia nhãn hiệu Nokia 1202 màu đen, số sim 0869925502 được xác định có liên quan đến vụ án. 01 áo khoác màu đen, phía trước trái có chữ “CKSINCE” màu vàng, có mũ, có lót bên trong màu vàng, 01 quần dài thể thao màu đen, dọc hai bên ống quần có kẻ sọc trắng xác định là tài sản cá nhận của D, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Đối với chị Lê Thị Hồng H là người đã mua lại chiếc xe máy điện của D: Quá trình điều tra chị H không biết chiếc xe máy điện trên là do D phạm tội mà có, chị H đã tự nguyện giao nộp chiếc xe trên cho cơ quan Công an, do đó không có căn cứ để xử lý chị H về hành vi “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chị H không yêu cầu Duy bồi thường số tiền 1.800.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra Dkhai nhận tội như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, nhân chứng, vật chứng và các tài liệu điều tra khác đã thu thập được trong quá trình điều tra.

Bản cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 12/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận C đã truy tố bị cáo Lê Văn Dtội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C giữ nguyên quan điểm truy tố nêu trên và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Văn D từ : 06- 09 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác màu đen,phía trước có chữ “CKSINCE” màu vàng, có mũ, có lót bên trong màu vàng, 01 quần dài thể thao màu đen, dọc hai bên ống quần có kẻ sọc trắng.

Tịch thu sung công chiếc điện thoại Nokia nhãn hiệu Nokia 1202 màu đen, số sim 0869925502 Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 1.800.000 đồng của bị cáo, bị cáo đã giao nộp 1.150.000 đồng cho cơ quan công an, đề nghị truy thu bị cáo số tiền 650.000 đồng.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Lê Văn D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với nội dung cáo trạng đã nêu.

Xét lời khai của bị cáo là thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được của vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16h ngày 22/12/2019 tại trước cửa hàng Circle K địa chỉ số 28 N, phường D, Quận C, thành phố Hà Nội, Lê Văn D đã trộm cắp 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu Before All 133F màu đỏ đen, số khung DGBFFV110217, số máy 00W150701984 của chị Lê Thị H trị giá 4.150.000 đồng. Tài sản đã thu hồi và trả cho người bị hại.

Chị H đã nhận lại tài sản và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tài sản của công dân và gây mất trật tự trị an xã hội.

Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 10.12.2019 Cơ quan CSĐT- Công an quận T ra quyết định khởi tố bị can đối với Lê Văn D về tội “ Trộm cắp tài sản”, ngày 27/2/2020 Viện kiểm sát nhân dân quận T đã ban hành cáo trạng truy tố Lê Văn D về tội Trộm cắp tài sản. Trong thời gian được hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giữ, ngày 22/12/2019 Lê Văn D tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản tại phường D, quận C, thành phố Hà Nội. Do đó, cần có hình phạt nghiêm khắc để đảm bảo tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội có tính chất cơ hội, tài sản trộm cắp đã được trả lại cho người bị hại, bị hại không có yêu cầu gì và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Khi biết hành vi phạm tội của mình đã bị Công an phát giác, bị cáo đã đến Công an phường D xin đầu thú. Đây là những tình tiết để áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có công việc ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì về phần dân sự đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tang vật: Xác định chiếc xe máy điện nhãn hiệu Before All 133F, màu đỏ đen, không gắn biển kiểm soát, là xe hợp pháp của chị H, cơ quan Công an đã trao trả cho chị H nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Chiếc điện thoại Nokia 1202 màu đen số sim 0869.925.502 được xác định bị cáo dùng vào việc liên lạc khi phạm tội nên đề nghị tịch thu sung công qũy Nhà nước.

- 01 áo khoác màu đen, phía trước có chữ “CKSINCE” màu vàng, có mũ, có lót bên trong màu vàng, 01 quần dài thể thao màu đen, dọc hai bên ống quần có kẻ sọc trắng là tài sản của D; không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên tòa bị cáo không đề nghị nhận lại, do đó Hội đồng xét xử xem xét tịch thu tiêu hủy - Số tiền 1.800.000 đồng, là tiền bán xe máy điện D trộm cắp được của chị H: Đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.800.000 đồng của bị cáo.Bị cáo đã giao nộp tại cơ quan Công an số tiền 1.150.000 đồng, còn 650.000 đồng bị cáo đã ăn tiêu hết đề nghị tiếp tục truy thu để sung công quỹ Nhà nước.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn D phạm tội Trộm cắp tài sản.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173 ; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51: Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự.

- Điều 135, 136, 331, 333, 336, 337 Bộ luật tố tụng hình sự - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn D 09 ( chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/12/2019.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia 1202 màu đen, bên trong có sim số 0869.952.502, điện thoại đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng.

Tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác màu đen, phía trước ngực trái có chữ “CKSINCE” màu vàng, có mũ, có lót bên trong màu vàng đã qua sử dụng; 01 quần dài thể thao màu đen, dọc hai bên ống quần có kẻ sọc màu trắng đã qua sử dụng (vật chứng trên đang lưu tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy theo biên bản giao nhận vật chứng số 107/THA-CA ngày 10/3/2020) Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 1.800.000 đồng của bị cáo, trong đó bị cáo đã nộp số tiền 1.150.000 đồng tại kho bạc nhà nước C theo số TK 3949.1049179. Tiếp tục truy thu bị cáo Lê Văn D số tiền 650.000 đồng sung công quỹ nhà nước.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

 Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2020/HS-ST ngày 08/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:95/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về