Bản án 95/2019/HSST ngày 16/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7 - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 95/2019/HSST NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16/7/2019, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2019/TLST- HS ngày 09 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Châu Hoàng S (tên gọi khác: M), sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và trú tại: 1001 đường A, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 08/12; con ông Châu Hoàng L sinh năm 1969 và con bà Nguyễn Thị P sinh năm 1968; chưa có vợ con; tiền án: bản án số 130/HSST ngày 30/9/2014 của Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt Châu Hoàng S 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Bản án số 56/HSPT ngày 22/01/2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt Châu Hoàng S 15 (mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm; nhân thân: bản án hình sự sơ thẩm số 116/2018/HS-ST ngày 27/11/2018, Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bản án hình sự phúc thẩm số 75/2019/HS – PT ngày 20/02/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hủy bản án hình sự sơ thẩm số 116/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh; bản án số 02/2019/HS-ST ngày 08/01/2019 của Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo Châu Hoàng S 02 (hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo Châu Hoàng S kháng cáo, bản án hình sự phúc thẩm số 193/2019/HSPT ngày 19/4/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh y án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 3; tiền sự: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Trại giam Chí Hòa ngày 24/7/2018 (Có mặt tại phiên tòa).

2. Nguyễn Thanh Hữu L (tên gọi khác là C), sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và trú tại:

350/1/14 đường A, phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp:

kng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn:

07/12; con ông Nguyễn Hữu U sinh năm 1976 và con bà Văn Thị Thanh T sinh năm 1972; chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: ngày 06/5/2010 bị Công an phường Tân Thuận Đông, Quận 7 xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Chí Hòa ngày 09/01/2019 (Có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: Ông Phạm Văn C, sinh năm 1979; địa chỉ: 03 đường D, phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; tạm trú: 368/35/4 đường D, phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trương Bảo V, sinh năm 1977; địa chỉ: 198/12 (số cũ 198/189) đường D, phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ ngày 20/7/2018, Châu Hoàng S điện thoại cho Nguyễn Thanh Hữu L rủ đến khách sạn Victoria địa chỉ số 11 đường số 10, khu dân cư Trung Sơn, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, để cùng nhau sử dụng ma túy. Đến 15 giờ cùng ngày, S rủ L qua Quận 7 tìm kiếm ai để xe sơ hở trộm cắp bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, L đồng ý. S cầm theo 01 bộ đoản bẻ khóa và sử dụng xe gắn máy hiệu Vision màu trắng biển số 53P2-681.04, S mượn của một đối tượng tên Châu quen biết với S ngoài xã hội (chưa rõ lai lịch) chở L qua cầu Him Lam sang Quận 7, cả 02 vừa đi vừa quan sát. Khi đến tại trước cửa nhà số 5 đường 53, khu phố 5, phường Tân Phong, Quận 7, phát hiện xe máy hiệu Exciter biển số: 59F1-747.19 của anh Phạm Văn C đang dựng trước cửa nhà, không người trông coi. L dừng xe cách đó khoảng 15 mét cảnh giới, quay đầu xe chờ sẵn, S đi bộ đến chỗ xe máy đang dựng, dùng tay rút dây điện công tắc xe rồi lên xe nổ máy tẩu thoát, quay về khách sạn Victoria. L điều khiển xe Vison chạy theo sau. S chạy xe máy trộm cắp được cất giấu tại bãi giữ xe của khách sạn, L đón xe về Quận 7.

Ngày 22/7/2018, S điện thoại cho L qua khách sạn Victoria cùng nhau mang xe trộm cắp được đi bán. S điện thoại cho đối tượng tên Thắng (chưa rõ nhân thân lai lịch) bán xe. L chạy xe Exciter trộm được, S chạy xe Vision đến cổng bệnh viện Quận 8 bán cho Thắng số tiền 13.000.000 đồng. S lấy ra 4.000.000 đồng chia cho L, số tiền còn lại S giữ tiêu xài và mua ma túy sử dụng chung.

Đến ngày 24/7/2018, S cùng đồng phạm trộm cắp tài sản tại Quận 5 bị bắt quả tang. Qua truy xét, đến ngày 02/8/2018 Công an Quận 7 phát hiện Nguyễn Thanh Hữu L nên mời về trụ sở làm việc.

Ngoài thực hiện trộm cắp tại địa bàn Quận 7, Châu Hoàng S, Nguyễn Thanh Hữu L còn thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” tại địa bàn Quận 5, Châu Hoàng S cùng các đồng phạm khác trộm cắp tại Quận 3, Quận 8. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 5 ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với S, L.

Tại Công an Quận 7, Châu Hoàng S, Nguyễn Thanh Hữu L khai nhận hành vi phạm tội như trên.

* Vật chứng vụ án:

- 01(một) xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter biển số 59F1-747.19, xe do ông Trương Bảo V đứng tên chủ sở hữu. Tháng 5/2018 ông V đã bán xe cho ông Phạm Văn C giá 32.000.000 đồng, không làm thủ tục sang tên. Hiện chưa thu hồi được xe.

+ 01(một) đĩa CD ghi âm, ghi hình lời khai các bị cáo ngày 15/11/2018 tại trại tạm giam Chí Hòa (lưu kèm hồ sơ).

* Về phần dân sự: ông Phạm Văn C yêu cầu bồi thường trị giá xe là 32.000.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 67/CT – VKSQ7 ngày 05/4/2019 Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Châu Hoàng S, Nguyễn Thanh Hữu L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên xử bị cáo Châu Hoàng S và Nguyễn Thanh Hữu L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Châu Hoàng S từ 02 (hai) năm tù đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Hữu L từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo đồng ý bồi thường cho người bị hại số tiền 32.000.000đ (ba mươi hai triệu đồng), các bị cáo đồng ý thỏa thuận bị cáo S sẽ bồi thường số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng), bị cáo L bồi thường số tiền 12.000.000đ (mười hai triệu đồng).

Các bị cáo khai nhận hành vi chiếm đoạt tài sản của mình phù hợp với nội dung vụ án được tóm tắt ở trên, không tự bào chữa, không tranh luận, xin giảm nhẹ hình phạt.

- Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;

- Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an Quận 7, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa xét có đủ cơ sở để kết luận:

c bị cáo Châu Hoàng S và Nguyễn Thanh Hữu L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01(một) xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter biển số 59F1- 747.19. Theo Kết luận định giá tài sản số 306/KL-HĐĐGTTHS ngày 30/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự: 01(một) xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter biển số 59F1-747.19 tại thời điểm bị xâm phạm, có giá trị thiệt hại là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). Vì vậy, các bị cáo đã phạm vào tội “ Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Trong vụ án này, bị cáo S là người chủ mưu, tìm kiếm tài sản sơ hở, trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và trực tiếp đi tìm người bán tài sản sau khi chiếm đoạt và là người chia tiền. Bị cáo L có vai trò là người chở bị cáo S đi tìm kiếm tài sản, sau đó có vai trò đứng cảnh giới để bị cáo S thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, và chở S tẩu thoát nếu bị phát hiện.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là táo bạo, liều lĩnh, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an. Các bị cáo đều có nhân thân không tốt, nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng để có tiền tiêu xài và sử dụng ma túy các bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bản án số 130/HSST ngày 30/9/2014 của Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt Châu Hoàng S 15 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Bản án số 56/HSPT ngày 22/01/2015 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt Châu Hoàng S 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm 06 sáu tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà đến ngày 20/7/2018 lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Vì vậy, cần phải có một mức án nghiêm tương xứng với vai trò và mức độ phạm tội của từng bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.

Đi với tên Thắng (người mua xe của S, L) do chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Đi với chiếc xe gắn máy hiệu Vision màu trắng biển số 53P2-681.04, S khai mượn của Châu (không rõ nhân thân lai lịch), S đã trả lại cho Châu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 tiếp tục điều tra xác minh, làm rõ, đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Ngưi bị hại là ông Phạm Văn C đã có đơn yêu cầu các bị cáo phải bồi thường tài sản chưa thu hồi được là 32.000.000đ (ba mươi hai triệu đồng). Tại phiên tòa, các bị cáo đồng ý bồi thường cho người bị hại số tiền trên, cụ thể bị cáo S sẽ bồi thường số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng), bị cáo L bồi thường 12.000.000đ (mười hai triệu đồng), nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện này của các bị cáo, do vậy buộc các bị cáo có trách nhiệm bồi thường số tiền trên cho người bị hại là có căn cứ.

[6] Xử lý vật chứng vụ án:

- 01 (một) đĩa DVD ghi âm, ghi hình lời khai của các bị cáo ngày 15/11/2018 tại Trại giam Chí Hòa, đây là vật chứng liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên lưu vào hồ sơ vụ án.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm: các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Châu Hoàng S và Nguyễn Thanh Hữu L cùng phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Châu Hoàng S 02 (hai) năm tù.

Tng hợp hình phạt 02 (hai) năm tù theo bản án hình sự phúc thẩm số 193/2019/HSPT ngày 19/4/2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo Châu Hoàng S phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án là 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/7/2018.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh Hữu L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 09/01/2019.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015:

- Lưu vào hồ sơ vụ 01 (một) đĩa DVD ghi âm, ghi hình lời khai của các bị cáo ngày 15/11/2018 tại Trại giam Chí Hòa.

- Buộc bị cáo Châu Hoàng S phải bồi thường cho ông Phạm Văn C số tiền 20.000.0000đ (hai mươi triệu đồng), bị cáo Nguyễn Thanh Hữu L phải bồi thường cho ông Phạm Văn C số tiền 12.000.000đ (mười hai triệu đồng).

Áp dụng Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015: Kể từ ngày cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi hành án về khoản tiền các bị cáo phải bồi thường nếu các bị cáo chưa thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành theo lãi suất theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm thi hành tại thời điểm thi hành.

4. Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng).

Bị cáo Châu Hoàng S phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 1.000.000đ (một triệu đồng).

Bị cáo Nguyễn Thanh Hữu L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 600.000đ (sáu trăm ngàn đồng).

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự.

Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Đi với người bị hại là ông Phạm Văn C, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trương Bảo V vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày tính từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2019/HSST ngày 16/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:95/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về