Bản án 95/2019/HNGĐ-ST ngày 24/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 95/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 24 tháng 6 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 205/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2019 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 95/2019/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T sinh năm 1991; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn D, xã L, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Nơi ở hiện nay: Thôn A, xã H, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Cù Văn T2 sinh năm 1991; Địa chỉ: Thôn D, xã L, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 18 tháng 02 năm 2019 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, chị Nguyễn Thị T (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Cù Văn T2 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T1, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 165 ngày 15 tháng 3 năm 2011, hôn nhân có hiệu lực từ ngày 01/01/2009. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống tại thôn D xã L, huyện T1, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Cù Văn T2 không chăm lo cuộc sống gia đình nên thường xảy ra cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã ly thân từ đầu năm 2018 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Cù Văn T2.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Cù Văn T2 có ba con chung tên là Cù Thị Nhi T3 sinh ngày 10/02/2009, Cù Thị N1 sinh ngày 30/10/2013 và Cù Thị Ngọc D1 sinh ngày 10/10/2015. Hiện ba con đang khỏe mạnh, phát triển bình thường. Điều kiện nuôi con của chị và anh Cù Văn T2 đều tốt, đảm bảo được cho con phát triển bình thường. Khi ly hôn chị đề nghị được nuôi con tên Cù Thị N1 và Cù Thị Ngọc D1, đề nghị anh Cù Văn T2 nuôi con tên Cù Thị Nhi T3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị đề nghị để chị và anh Cù Văn T2 tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Cù Văn T2 không có tài sản chung, chị không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.

Bị đơn là anh Cù Văn T2 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân nhưng không trình bày quan điểm của mình.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng, bị đơn chưa tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng. Về việc giải quyết vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Về các tài liệu, chứng cứ và tình tiết của vụ án:

Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, các tình tiết mà các bên đã thống nhất: Về quan hệ hôn nhân, con chung và lý do đề nghị Tòa án giải quyết các quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà đương sự giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được, anh Cù Văn T2 không có ý kiến gì nên thuộc trường hợp không phải chứng minh; Quan hệ tài sản chung vợ chồng đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt vấn đề phải chứng minh.

Các tình tiết mà các bên không thống nhất: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, anh Cù Văn T2 đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị T và anh Cù Văn T2.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Cù Văn T2 được xác lập theo Giấy chứng nhận kết hôn số 165 ngày 15 tháng 3 năm 2011, hôn nhân có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 của Ủy ban nhân dân xã L, huyện T1, thành phố Hải Phòng là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Cù Văn T2 không chăm lo cuộc sống gia đình nên thường xảy ra cãi nhau, mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị Nguyễn Thị T xin ly hôn với anh Cù Văn T2. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị T với anh Cù Văn T2.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Cù Văn T2 có ba con chung tên là Cù Thị Nhi T3 sinh ngày 10/02/2009, Cù Thị N1 sinh ngày 30/10/2013 và Cù Thị Ngọc D1 sinh ngày 10/10/2015. Khi ly hôn chị Nguyễn Thị T có nguyện vọng nuôi con tên con tên Cù Thị N1 và Cù Thị Ngọc D1, đề nghị anh Cù Văn T2 nuôi con tên Cù Thị Nhi T3, anh Cù Văn T2 không trình bày quan điểm. Tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự thể hiện chị Nguyễn Thị T, anh Cù Văn T2 có điều kiện, khả năng và thời gian để chăm sóc con chung tốt và như nhau, con chung là Cù Thị Nhi T3 có nguyện vọng ở với cha. Vì vậy áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung tên Cù Thị N1 và Cù Thị Ngọc D1 cho chị Nguyễn Thị T và giao con chung tên Cù Thị Nhi T3 cho anh Cù Văn T2 trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị Nguyễn Thị T trình bày để tự thỏa thuận và anh Cù Văn T2 không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Cù Văn T2 không có yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Cù Văn T2.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên Cù Thị N1 sinh ngày 30/10/2013 và Cù Thị Ngọc D1 sinh ngày 10/10/2015 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con chung tên Cù Thị Nhi T3 sinh ngày 10/02/2009 cho anh Cù Văn T2 trực tiếp nuôi dưỡng. Việc trực tiếp nuôi con chung được thực hiện cho đến khi từng con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị T trình bày để tự thỏa thuận giải quyết, anh Cù Văn T2 không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Cù Văn T2 không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Nguyễn Thị T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng tại Biên lai số 0000464 ngày 21 tháng 3 năm 2019; Chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T, anh Cù Văn T2 được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 95/2019/HNGĐ-ST ngày 24/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:95/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về