TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 95/2018/HS-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 84/2018/TLST- HS, ngày 05 tháng 11 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2018/QĐXXST- HS, ngày 14 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:
Phùng Đức K (tên gọi khác: Không), sinh ngày 07/02/1993 tại thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:9/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn X và bà Hoàng Thị D; chưa có vợ, con; tiền sự: Không có; tiền án: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý hình sự, chưa bị xử lý hành chính; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/9/2018 đến nay, có mặt.
- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Quang T, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 15 phút ngày 11/9/2018, tổ công tác Đồn Công an thị trấnĐồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn trong khi làm nhiệm vụ tại khu Dây Thép, thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn phát hiện, lập biên bản bắt quả tang 01 nam thanh niên tên là Phùng Đức K, sinh năm 1993, trú tại: Thôn B, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn có biểu hiện nghi vấn. K tự giác lấy từ trong túi quần đằng trước bên phải đang mặc ra 01 gói nilon có chữ “bơm kim tiêm sử dụng một lần VINAHANKOOK”, bên trong có 05 gói giấy màu trắng bề mặt in chữ Trung Quốc, bên trong mỗi gói chứa chất bột màu trắng, K khai là chất ma túy.
Tại Cơ quan điều tra Phùng Đức K khai nhận: Bản thân nghiện ma túy từ tháng 7/2017 đến nay. Khoảng 08 giờ 00, ngày 11/9/2018, K đi từ nhà tại thôn B, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn bắt xe khách lên thị trấn Đồng Đăng, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn để tìm việc làm nhưng không có việc. Sau đó K tiếp tục đi lên cửa khẩu Tân Thanh, huyện Văn Lãng để mua ma túy về sử dụng. Khi đến cửa khẩu Tân Thanh, K đi bộ theo đường mòn lên khu vực đỉnh đồi giáp biên giới Việt Nam – Trung Quốc thì gặp một người đàn ông Trung Quốc (không biết tên, tuổi, địa chỉ). K nói bằng tiếng dân tộc hỏi mua 05 (năm) gói Hêrôin thì người này đồng ý, K đưa cho người này 500.000đồng và người này đưa cho K05 gói ma túy Hêrôin. K cho số ma túy vừa mua được vào túi nilon đựng bơm kim tiêm đã qua sử dụng nhặt được ở cạnh đường và giấu vào túi quần phía trước đang mặc, bắt xe trở về thị trấn Đồng Đăng. Khi đi đến khu vực ngã ba đổi tiền thuộc khu Dây Thép, thị trấn Đồng Đăng thì K xuống xe, đi bộ được một đoạn thì bị bắt quả tang như đã nêu trên.
Bản kết luận giám định số 322/KL-PC09, ngày 13/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Hêrôine, có tổng khối lượng 0,338 gam (đã trừ bì).
Tại bản cáo trạng số 85/CT-VKS, ngày 01 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc đã truy tố bị cáo Phùng Đức K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở phần trên và không khai bổ sung.
Trong phần tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Phùng Đức K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và xử phạt bị cáo Phùng Đức K từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi tư) tháng tù giam. Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng vì bị cáo không có tài sản, không có nghề nghiệp, bị cáo là người nghiện ma túy. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ. Bị cáo Phùng Đức K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát và không nóilời nói sau cùng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với vật chứng bị thu giữ, phù hợp với biên bản bắt quả tang và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ khẳng định, bị cáo Phùng Đức K đã có hành vi mua 05 (năm) gói ma túy Heroine, có khối lượng 0,338 gam về với mục đích để sử dụng. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố đối với bị cáo Phùng Đức K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội, hành vi đó cũng là nguyên nhân gây ra tệ nạn xã hội và phát sinh các tội phạm khác. Khi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, do vậy bị cáo có đủ khả năng để nhận thức việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Để có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử đánh giá về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo như sau:
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiếttăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Về nhân thân: Bị cáo chưa bị xử lý hình sự, chưa bị xử lý hành chính nên xác định bị cáo có nhân thân tốt.
[6] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xét nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, để bị cáo cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội. Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo nên cũng cần xem xét giảm nhẹ phần nào mức án để bị cáo yên tâm cải tạo.
[7] Về hình phạt bổ sung:
Theo quy định tại khoản 5, Điều 249 của Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng. Nhưng xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản, bản thân là người nghiện ma túy nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,298 gam Heroine đựng trong 01 (một) phong bì in chữ “CÔNG AN HUYỆN CAO LỘC” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình Chiến, trợ lý giám định và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới là chất Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
[9] Về án phí: Bị cáo Phùng Đức K bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo được quyền kháng cáo theo Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[10] Đối với người đàn ông người Trung Quốc bán ma túy cho bị cáo do không biết họ tên, tuổi, địa chỉ và do điều kiện về địa lý nên không có cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự.
[11] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[12] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo phù hợp với các chứng cứ khác và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249, điểm s, khoản 1, Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, khoản 2,Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ khoản 2, Điều 136; Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;điểm a, khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phùng Đức K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Phùng Đức K 18 (mười tám) tháng tù giam. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/9/2018.
- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,298 gam Heroine đựng trong01 (một) phong bì in chữ “CÔNG AN HUYỆN CAO LỘC”, có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Đình Chiến, trợ lý giám định và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Cao Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc ngày 01/11/2018).
4. Về án phí: Bị cáo Phùng Đức K phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo tại phiên tòa. Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 95/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 95/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về