TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 94/2021/HS-PT NGÀY 22/01/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 92/2020/TLPT-HS ngày 05 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Bùi Văn Đ về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 99/2020/HSST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
- Bị cáo có kháng cáo:
Bùi Văn Đ - sinh năm 1978 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Tổ dân phố C, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: không biết chữ; con ông Bùi Văn Q (chết) và bà Nguyễn Thị H (1950); vợ Trương Thị T T (1977); có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/9/2020, có mặt tại phiên tòa.
- Đại diện hợp pháp của bị cáo và là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trương Thị T T ( sinh năm1977, là vợ của bị cáo Bùi Văn Đ); địa chỉ: Tổ dân phố C, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa, có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo : Luật sư Huỳnh Văn T - Công ty Luật TNHH một thành viên A, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa - bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án. Có đơn xin xét xử vắng mặt và có gửi luận cứ bào chữa cho bị cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17h00 ngày 08/4/2018, Bùi Văn Đ đến nhà Nguyễn Duy Vũ P chơi và để ăn uống. Lúc này tại nhà anh P có Nguyễn Duy T, Phạm Trung H, Nguyễn Văn C đang cùng nhau ăn uống. Trong lúc ăn uống, Bùi Văn Đ khoe mình có mối quan hệ xã hội với một số giang hồ ở N và lấy điện thoại ra gọi cho họ, sau đó ép anh H nghe điện thoại để chứng minh mối quan hệ của mình. Do không muốn nghe điện thoại nên anh H lấy điện thoại của Đ ném xuống nền nhà. Thấy vậy, Bùi Văn Đ chạy xuống bếp nhà anh P lấy 01 con dao Thái Lan có cán màu vàng dài khoảng 20cm chạy lên đâm anh H 01 nhát vào vùng ngực trái và 01 nhát vào vùng đầu. T và C thấy vậy liền can ngăn, tước dao trên tay của Đ. Sau đó, H được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Khánh Hòa, còn Đ bỏ về thành phố C. Ngày 05/6/2018, Cơ quan C sát điều tra Công an huyện Diên Khánh làm việc với Bùi Văn Đ, tại Cơ quan điều tra Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 144 ngày 30/5/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa kết luận thương tích: Vùng đầu có 01 vết sẹo dài 03cm; sẹo khô tốt; Vùng ngực trái có 01 vết sẹo dài 1,5cm; sẹo khô tốt (sẹo vết thương); Vùng ngực dọc giữa xương ức có 01 vết sẹo 20cm x 0,2cm; sẹo khô tốt (sẹo phẫu thuật); Vùng ngực trái trên đường nách giữa có 01 vết sẹo dài 1,5cm; sẹo khô (sẹo dẫn lưu); Vùng ngực giữa có 02 vết sẹo, mỗi sẹo dài 01cm; sẹo khô tốt (sẹo dẫn lưu); Vết thương vùng ngực trái sâu thấu ngực gây thủng thành thất phải, đã được phẫu thuật dẫn lưu, hiện tại ổn định; Dấu hiệu chính qua giám định: 01 sẹo lớn và 05 sẹo nhỏ, tỷ lệ thương tật 09%; thủng cơ tim, tỷ lệ thương tật 35%.Thực hiện nguyên tắc cộng lùi: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 41%.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 105/KLGĐTC ngày 08/9/2019 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên kết luận: Về y học: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi phạm tội và hiện tại bị cáo bị bệnh động kinh/ tăng huyết áp vô căng (G40/110-ICD10); Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi phạm tội và hiện tại bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 99/2020/HS-ST ngày 28/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:
Áp dụng điểm n khoản 1 điều 123; Điều 15; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Bùi Văn Đ.
Tuyên xử Xử phạt bị cáo Bùi Văn Đ 07 (bảy) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 15/9/2020.
Ngoài ra bản án còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 30/9/2020 bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Trong văn bản gửi đến Toà án, Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất quan điểm về tội danh mà cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, xem xét ý kiến của Luật sư, quan điểm của Viện kiểm sát, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi và tội danh như Toà án cấp sơ thẩm xét xử là dúng, chỉ giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm hình phạt.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được Cơ quan C sát điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 17h30 ngày 08/4/2018, trong lúc ngồi ăn nhậu tại nhà của anh Nguyễn Duy Vũ P tại Phước Tuy 1, Diên Phước, Diên Khánh, bị cáo Bùi Văn Đ đã yêu cầu anh Phạm Trung H nghe điện thoại nhưng H không nghe, H cầm điện thoại của Đ ném xuống đất. Thấy vậy, Đ đi xuống bếp của nhà anh P lấy một con dao Thái Lan cán vàng chạy lên đâm anh H một nhát vào ngực trái, một nhát vào vùng đầu. Mọi người can ngăn, tước dao của Đ rồi đưa anh H đi cấp cứu. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 144 ngày 30/5/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Khánh Hòa kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Phạm Trung H do thương tích gây nên hiện tại là 41%. Kết luận giám định pháp y tâm thần số 105/KLGĐTC ngày 08/9/2019 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Tây Nguyên đã kết luận về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của Bùi Văn Đ: Trước, trong, sau khi thực hiện hành vi phạm tội và hiện tại bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn Đ cho rằng mình không có ý định giết anh Phạm Trung H, bị cáo chỉ phạm tội cố ý gây thương tích, ngoài ra bị cáo bị bệnh về tâm thần nên nói bị cáo côn đồ là không đúng. Hội đồng xét xử nhận định: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã dùng dao đâm bị hại vì anh H đã ném điện thoại của bị cáo xuống đất. Xét thấy bị cáo đã dùng hung khí nguy hiểm là con dao Thái Lan, đâm bị hại Phạm Trung H một nhát vào đầu; một nhát vào vùng ngực trái, vết thương vùng ngực trái sâu thấu ngực gây thủng thành thất phải. Hành vi dùng hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng trọng yếu trên cơ thể người khác của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội giết người theo quy định của pháp luật.
Như vậy, Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã xét xử bị cáo Bùi Văn Đ về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; đã tác động gia đình bồi thường một phần cho bị hại; bản thân bị cáo phạm tội trong tình trạng bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt; bị cáo lần đầu phạm tội và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm b,q, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 07 ( bảy) năm tù là đã xem xét, chiếu cố cho bị cáo. Trong giai đoạn phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận.
Từ những vấn đề phân tích trên, thấy rằng Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án đúng pháp luật, kháng cáo của bị cáo không có căn cứ nên không chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm, như đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên toà phúc thẩm.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm hình sự theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH về án phí, lệ phí Toà án.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự:
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Văn Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm n khoản 1 điều 123; Điều 15; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt bị cáo Bùi Văn Đ 07 (bảy) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/9/2020.
Về án phí phúc thẩm hình sự: Bị cáo Bùi Văn Đ phải nộp 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 94/2021/HS-PT ngày 22/01/2021 về tội giết người
Số hiệu: | 94/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về