Bản án 94/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 94/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 29 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 169/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 02 năm 2019 về việc tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Ngọc H, sinh năm 1994: địa chỉ; số 359 ấp 2, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang (có mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1994: địa chỉ; số 232B, ấp 2, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Võ Thị Thu T, sinh năm 1972: địa chỉ; số 359, ấp 2, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai, biên bản không hòa giải được và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Huỳnh Thị Ngọc H trình bày: Chị và anh D do quen biết, được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới năm 2016, anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban N dân thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang. Anh chị sống chung hạnh phúc đến tháng 12 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên N do bất đồng quan điểm, trong cuộc sống thường xuyên cự cãi, tính tình không phù hợp nhau. Anh chị không còn sống chung từ đó đến nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn anh yêu cầu ly hôn với anh D

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Trọng N, sinh ngày 17.10.2017. Hiện cháu N đang sống chung với chị H. Khi ly hôn chị H yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Anh chị có 01 xe Trung Quốc, biển kiểm soát 67L-5909 trị giá 6.000.000 đồng (do anh D đang quản lý sử dụng) 01 tủ cưới bằng inox trị giá 2.000.000 đồng. Phần tài sản này chị đã nhận lại không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Anh chị có nợ bà Võ Thị Thu T số tiền 6.000.000 đồng hiện đã trả xong. Chị không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị T trình bày: Bà không yêu cầu chị H anh D trả số tiền 6.000.000 đồng, bà và vợ chồng chị H, tự thỏa thuận, bà xin vắng mặt tại các buổi hòa giải, đối chất, xét xử tại Tòa án vì bận làm ăn buôn bán nên không tham gia được.

Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ chị anh Nguyễn Văn D để tham gia phiên hòa giải nhưng anh D vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được vụ án.

Tại phiên tòa, chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Huỳnh Thị Ngọc H khởi kiện anh Nguyễn Văn D, anh D cư trú ấp 2, thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang, Tòa án nhân dân huyện C thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh Nguyễn Văn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt. Căn cứ Điều 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh D.

[2]. Về hôn nhân: Chị H và anh D sống chung với nhau vào năm 2016 anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang nên quan hệ hôn nhân giữa anh chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống do anh, chị bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau. Chị và anh D không còn sống chung từ tháng 12 năm 2018 cho đến nay, như vậy mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung giữa chị H, anh D không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, chị H yêu cầu ly hôn với anh D, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình “Khi vợ hoặc chồng xin ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn....” Tại phiên tòa, chị H xác định tình cảm không còn. Do đó, yêu cầu ly hôn của anh H là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

[3]. Về con chung: Anh chị có 01 con chung Nguyễn Trọng N, sinh ngày 17.10.2017, khi ly hôn chị H yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên, hiện nay cháu N sống ổn định với chị H vẫn phát triển tốt về thể chất và tinh thần, anh D cũng không có ý kiến phản đối. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu N cho chị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa chị H không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Tại phiên tòa chị H rút lại yêu cầu chia tài sản chung để vợ chồng tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về nợ chung: Bà Võ Thị Thu T không yêu cầu chị H, anh D trả số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ghi nhận chị H xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của chị H, anh D thì anh, chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Huỳnh Thị Ngọc H phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ

Các khoản 1 Điều 53, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Các Điều 28, 35, 39, 147, 217, 219, 228, 238, 235, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Ngọc H.

- Về hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Ngọc H được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.

Giấy chứng nhận kết hôn số 72 ngày 14.10.2016 của Ủy ban nhân dân thị trấn C huyện C, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Chị Huỳnh Thị Ngọc H được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Trọng N, sinh ngày 17.10.2017. Anh Nguyễn Văn D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh D trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

về tài sản chung: Đình chỉ yêu cầu chia tài sản chung của chị Huỳnh Thị Ngọc H với anh Nguyễn Văn D.

Về nợ chung: Bà Võ Thị Thu T không yêu cầu chị H và anh D số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng). Nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ghi nhận chị H xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của chị H và anh D thì anh, chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

Về án phí: Chị Huỳnh Thị Ngọc H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 600.000 đồng (sáu trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0012617 ngày 15.02.2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang. Chị H được nhận lại 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng).

Đương sự có mặt tham gia phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 94/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:94/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về