TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 93/2021/HS-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM
Ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 96/2021/TLST-HS ngày 5 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:95/2021/QĐXXST-HS ngày 3 tháng 6 năm 2021 đối với:
Bị cáo: Nguyễn Văn C. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 10 tháng 02 năm 1980 tại xã TL, huyện TX, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: K1, phường HHT, thành phố V, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và bà Trần Thị L; Có vợ: Đinh Thị Lan A và 03 con, lớn nhất sinh năm 2002 và nhỏ nhất sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Quyết định số 3116/QĐ.UBND-NC ngày 23/7/2008 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Hải quan và phòng cháy chứa cháy.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/02/2021 đến ngày 01/3/2021 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Đặt tiền để bảo đảm”. Có mặt.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Công ty cổ phần vận tải và dịch vụ PETROLIMEX Nghệ Tĩnh (PTS Nghệ Tĩnh). Địa chỉ: Xóm 13, xã Nghi Kim, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Người đại diện theo pháp luật ông Mạnh Xuân H, sinh năm 1972, Chức vụ: Giám đốc. Ủy quyền tham gia tố tụng cho anh Hoàng Trường Gi, sinh năm 1998, chức vụ: Chuyên viên - Phòng kinh doanh vận tại. Có đơn xin xử vắng mặt.
- Chị Đinh Thị Lan A. Sinh năm 1980. Nơi cư trú: Khối 1, phường Hà Huy Tập, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Có đơn xin xử vắng mặt.
Người chứng kiến: Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1977. Nơi cư trú: Bản TT, xã NC, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 27/01/2021, Nguyễn Văn C, sinh năm 1980, trú tại K1, phường HHT, thành phố V, tỉnh Nghệ An, là nhân viên lái xe của Công ty cổ phần vận tải và dịch vụ Petrolimex Nghệ Tĩnh (PTS Nghệ Tĩnh), đã điều khiển xe tải chở xăng dầu mang biển kiểm soát: 37C-084.86 của Công ty cổ phần vận tải và dịch vụ Petrolimex Nghệ Tĩnh sang giao xăng dầu cho Công ty xăng dầu bên nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Sau khi giao xăng dầu xong, C điều khiển xe trở về Việt Nam. Trên đường về đến khu vực tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào thì có một người đàn ông quốc tịch Lào (không quen biết) đến hỏi C mua pháo hoa nổ không thì C đồng ý. Sau khi thống nhất số lượng, giá cả C đã mua của người này 14 (mười bốn) khối pháo hoa nổ có đặc điểm giống nhau, đều là các khối hình trụ tròn, có kích thước dài 86 cm, đường kính 05 cm, bên ngoài mỗi khối pháo có bọc bằng lớp giấy có in chữ nước ngoài và in hình ảnh pháo hoa nổ cháy sáng với giá tiền là 1.000.000đ (một triệu đồng). Sau khi mua xong, C đã cất giấu số pháo hoa vào ống dẫn dầu của bồn chứa xăng dầu của chiếc xe tải mang biển kiểm soát: 37C-084.86 rồi tiếp tục điều khiển xe trở về Việt Nam. Đến khoảng 20 giờ ngày 01/02/2021, C điều khiển xe tải về đến Cửa khẩu Quốc tế Nậm Cắn (thuộc địa phận xã Nậm Cắn, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An) thì bị tổ công tác Đồn biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Nậm Cắn và Chi cục Hải quan Cửa khẩu Quốc tế Nậm Cắn phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số tang vật trên và 01 (một) chiếc xe tải (dạng xe bồn chở xăng dầu), biển kiểm soát: 37C-084.86.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào hồi 08 giờ 40 phút ngày 02/02/2021 đã xác định: 14 (mười bốn) khối hình trụ tròn, có kích thước giống nhau, mỗi khối dài 86 cm, đường kính 05 cm, bên ngoài được bọc bằng lớp giấy có in chữ nước ngoài và hình pháo hoa nổ cháy sáng (nghi là pháo nổ) có tổng khối lượng là 14kg (mười bốn kilôgam). Để có cơ sở kết luận, hội đồng đã lấy 01 (một) khối hình trụ tròn, dài 86 cm, đường kính 05 cm, bên ngoài được bọc bằng lớp giấy có in chữ nước ngoài và hình pháo hoa nổ cháy sáng (nghi là pháo nổ) có khối lượng là 01kg (một kilôgam) để gửi đi giám định.
Tại kết luận giám định số 225/KL-PC09(Đ2-CN) ngày 07/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: “Mẫu vật thu giữ của Nguyễn Văn C gửi giám định là pháo, là loại pháo nổ”.
Cáo trạng số 60/CT-VKS-KS ngày 27/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An đã truy tố Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung cáo trạng, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C mức phạt tiền là hình phạt chính từ 70.000.000 đ (Bảy mươi triệu đồng) đến 100.000.000 đ (Một trăm triệu đồng). Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần vận tải và dịch vụ Petrolimex Nghệ Tĩnh (PTS Nghệ Tĩnh) đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì về dân sự nên không xem xét.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy: 13 (mười ba) khối pháo nổ còn lại có khối lượng là 13kg (mười ba kilôgam) cùng vỏ bao bì niêm phong ban đầu được niêm phong lại trong một thùng cát tông màu trắng dán kín.
Về xử lý việc đặt tiền để bảo đảm: Trả lại cho chị Đinh Thị Lan A số tiền 30.000.000 đ (Ba mươi triệu đồng) là tiền đã đặt để bảo đảm cho bị cáo Nguyễn Văn C tại tài khoản tạm giữ số 3949 09015243 00000 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Kỳ Sơn.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật. Ý kiến của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Công ty cổ phần vận tải và dịch vụ Petrolimex Nghệ Tĩnh đã nhận lại được tài sản không có yêu cầu gì thêm, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Đinh Thị Lan A đề nghị được trả lại số tiền đã đặt bảo đảm cho bị cáo Nguyễn Văn C.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn C đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có tranh luận gì.
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi của mình. Mong Hội đồng xét xử cho bị cáo mức xử phạt nhẹ nhất để có cơ hội sửa chữa sai lầm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kỳ Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng đã có đủ lời khai trong quá trình điều tra, xét thấy không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 20 giờ ngày 01/02/2021, tại Cửa khẩu Quốc tế Nậm Cắn thuộc địa phận xã Nậm Cắn, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Văn C đang có hành vi tàng trữ hàng cấm (pháo nổ) có khối lượng 14kg (mười bốn kilôgam) nhằm mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác tổ công tác Đồn Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế Nậm Cắn và Chi cục Hải quan Cửa khẩu Quốc tế Nậm Cắn đã phát hiện, bắt quả tang. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[4] Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Vụ án có tính chất ít nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước đối với một số hàng hóa cấm nói chung và hàng hóa cấm là pháo nổ nói riêng. Làm mất trật tự an toàn xã hội trên địa bàn do đó cần xử lý nghiêm hành vi của bị cáo.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng;
Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: Lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét thấy: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, có nơi cư trú rõ ràng, luôn chấp hành tốt sự triệu tập của các cơ quan tố tụng, bị cáo có công việc và thu nhập ổn định và cũng là lao động chính trong gia đình nên không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà bị cáo có khả năng chấp hành hình phạt bằng hình phạt chính là phạt tiền, nên cần phạt bị cáo mức phạt tiền phù hợp để bị cáo nhận ra lỗi lầm của bản thân đã gây ra cũng đủ để răn đe và giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Công ty cổ phần vận tải và dịch vụ PETROLIMEX Nghệ Tĩnh (PTS Nghệ Tĩnh) có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì về mặt dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về xử lý việc đặt tiền để bảo đảm: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn chấp hành sự triệu tập của các cơ quan tố tụng, không vi phạm nghĩa vụ khi được tại ngoại, căn cứ Điều 10 và Điều 12 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 7/8/2018 trả lại cho chị Đinh Thị Lan A số tiền 30.000.000 đ (Ba mươi triệu đồng) là tiền đã đặt để bảo đảm cho bị cáo Nguyễn Văn C tại tài khoản tạm giữ số 3949 09015243 00000 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Kỳ Sơn.
[8] Về xử lý vật chứng: 13 (mười ba) khối pháo nổ hình trụ tròn, có đặc điểm và hình dạng giống nhau, chiều dài mỗi khối là 86 cm, đường kính 05cm, bên ngoài mỗi khối được bọc bằng lớp chữ có in chữ nước ngoài và hình pháo hoa nổ cháy sáng, có khối lượng còn lại là 13kg (mười ba kilôgam) cùng vỏ bao bì niêm phong ban đầu được niêm phong lại trong một thùng cát tông màu trắng dán kín, trên mép dán có giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có đầu đủ chữ ký của những người tham gia niêm phong và chữ ký của bị cáo Nguyễn Văn C. Đây là vật chứng cấm lưu hành, tàng trữ cần tịch thu và tiêu hủy.
Đối với chiếc xe ô tô tải nhãn hiệu HUYNDAI, loại xe bồn chở dầu, màu trắng, mang biển kiểm soát: 37C-084.86 mà Nguyễn Văn C dùng cất giấu pháo nổ. Quá trình điều tra xác định được chiếc xe trên thuộc sở hữu của Công ty cổ phần vận tải và dịch vụ Petrolimex, quá trình C cất giấu pháo nổ trên xe phía Công ty không biết nên ngày 09/02/2021, cơ quan CSĐT Công an huyện Kỳ Sơn đã trả lại chiếc xe cho anh Hoàng Trường Gi (người được Công ty ủy quyền), nay không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Đối với người đàn ông đã bán pháo cho Nguyễn Văn C cơ quan điều tra chưa xác định được lý lịch, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.
[11] Các đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
[12] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và điều luật áp dụng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C: 80.000.000 đ (Tám mươi triệu đồng).
2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 13 (mười ba) khối pháo nổ hình trụ tròn, có đặc điểm và hình dạng giống nhau, chiều dài mỗi khối là 86 cm, đường kính 05cm, bên ngoài mỗi khối được bọc bằng lớp chữ có in chữ nước ngoài và hình pháo hoa nổ cháy sáng, có khối lượng còn lại là 13kg (mười ba kilôgam) cùng vỏ bao bì niêm phong ban đầu được niêm phong lại trong một thùng cát tông màu trắng dán kín, trên mép dán có giấy niêm phong, trên giấy niêm phong có đầu đủ chữ ký của những người tham gia niêm phong và chữ ký của bị cáo Nguyễn Văn C. (Đặc điểm, vật chứng hiện đang tạm giữ tại kho vật chứng Ban chỉ huy quân sự huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/4/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn và Ban chỉ huy quân sự huyện Kỳ Sơn. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thì Công an huyện Kỳ Sơn có trách nhiệm phối hợp với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn và Ban chỉ huy Quân sự huyện Kỳ Sơn làm thủ tục tịch thu và tiêu hủy theo quy định của pháp luật).
3. Về xử lý việc đặt tiền để bảo đảm: Căn cứ Điều 122 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 10 và Điều 12 thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC- VKSNDTC-TANDTC ngày 7/8/2018 Trả lại cho chị Đinh Thị Lan A, sinh năm 1980, Nơi cư trú: Khối 1, phường Hà Huy Tập, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An số tiền 30.000.000 đ (Ba mươi triệu đồng) là tiền đã đặt để bảo đảm cho bị cáo Nguyễn Văn C tại tài khoản tạm giữ số 3949 09015243 00000 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kỳ Sơn mở tại Kho bạc Nhà nước huyện Kỳ Sơn.
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 93/2021/HS-ST ngày 16/06/2021 về tội tàng trữ hàng cấm
Số hiệu: | 93/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về