Bản án 93/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

 BẢN ÁN 93/2020/HS-ST NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 20 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 94/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Quang N, Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1985, tại Điện Biên; Nơi cư trú: Đội 11, xã T, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Quang N1, sinh năm 1966 và con bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1966; có vợ: Trần Thị M, sinh năm 1988 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2010; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 09/01/2020 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Hoàng Đình H, sinh năm 1989.

Trú tại: Đội 10A, xã T, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Vũ Thị N2, sinh năm 1993.

Trú tại: Đội 10A, xã T, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

(Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ ngày 13/11/2019, Phạm Quang N đi bộ một mình từ nhà ở Đội 11, xã T, huyện Điện Biên đến khu vực đường bờ mương thuộc đội 8, xã T1 để tập thể dục, khi đi N đem theo một đôi côn hai khúc được làm bằng gỗ hình lục giác, đoạn 1 có chiều dài 38cm, một đầu bằng có chu vi 8cm, một đầu nhọn có chu vi 9cm; đoạn 2 có chiều dài 35cm, một đầu bằng có chu vi 7,5 cm, một đầu nhọn có chu vi 9cm, hai đoạn gỗ được nối với nhau bằng dây dù màu xanh lục dài 9,7 cm. Khi N đi đến khu vực đập tràn thuộc bờ mương đội 8, xã T1, huyện Điện Biên, thì gặp Hoàng Đình H đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 27B1-075.77 đi hướng ngược lại. Lúc này H không đội mũ bảo hiểm, điều khiển xe mô tô với tốc độ khoảng 5km/ giờ vừa đi vừa xem nước mương vào ao thả cá của gia đình. Mặc dù không có mâu thuẫn với H, nhưng do nghi ngờ H lập trình máy tính dẫn đến làm N bị đau đầu, nên khi H đi ngang qua chỗ N đang đi bộ trên bờ đập tràn, cách khoảng 1,2m phía bên phải theo chiều đi của H, thì bất ngờ N tay phải cầm 01 đầu khúc côn vụt một nhát theo hướng từ trên xuống dưới từ phải qua trái về phía người của H, do H đang điều khiển xe mô tô nên khúc côn trúng vào vùng thái dương đỉnh phải của H gây vết thương rách da đầu dài khoảng 6cm, chỗ rộng nhất 2,5cm, chỗ nhỏ nhất 02cm, tụ khí vùng trán, vỡ lún sọ vùng đỉnh lệch phải. Lúc này, N nói: “Mày xin lỗi tao chưa?”. Bị đánh H cùng xe mô tô bị đổ, ngã ra đường, sau đó H chạy bộ về nhà và bỏ lại xe mô tô ở bờ mương, N không đuổi theo H mà đi bộ về nhà.

Hoàng Đình H được cấp cứu, điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên từ ngày 13/11/2019 đến ngày 20/11/2019 ra viện; Ngày 16/3/2020 tiếp tục vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Điện Biên điều trị vết thương đến ngày 23/3/2020 ra viện.

Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số 249/TgT ngày 12/12/2019 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Điện Biên, kết luận các dấu vết thương tích trên cơ thể Hoàng Đình H gồm: 01 sẹo phầm mềm = 3%; kHết xương hộp sọ ở vùng đỉnh phải sau phẫu thuật, kích thước khoảng 20mm; điện não đồ có ổ tổn thương tương ứng = 20%; tụ máu ngoài màng cứng đã điều trị, điện não đồ có ổ tổn thương tương ứng = 23%. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho Hoàng Đình H hiện tại là 40%.

Kết luận giám định pháp y về vật gây thương tích số 250/GĐ-PY ngày 12/12/2019 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Điện Biên kết luận: Chiếc côn gồm hai đoạn bằng gỗ, hình lục giác, màu xám, mật độ chắc, trọng lượng 480 gram như đã mô tả ở trên có thể gây nên thương tích cho Hoàng Đình H và phù hợp với đặc điểm hình thành dấu vết thương tích do tác động ngoại lực của vật tày gây nên.

Kết luận giám định pháp y số 110/KLGĐ ngày 07/01/2020 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền núi phía Bắc, kết luận: Phạm Quang N không bị bệnh tâm thần; Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 13/11/2019 và hiện tại Phạm Quang N không bị bệnh tâm thần, đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi. Tại bản cáo trạng số 93/CT-VKSĐB ngày 22/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo Phạm Quang N về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng đến 06 (sáu) năm tù về tội "Cố ý gây thương tích"; Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 590 của Bộ luật Dân sự, chấp nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo với bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về việc bồi thường thiệt hại do hành vi của bị cáo đã gây ra tổng số tiền 53.930.000 đồng. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/ Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm. Bị cáo không phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát, không có ý kiến gì tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi của bị cáo được chứng minh như sau: Khoảng 18 giờ, ngày 13/11/2019, tại khu vực đường bờ mương thuộc đội 8, xã T1, Hện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, Phạm Quang N vì bực tức cá nhân, do N nghi ngờ H lập trình máy tính dẫn đến làm N bị đau đầu, N đã vô cớ dùng côn hai khúc bằng gỗ, hình lục giác, mật độ chắc, vụt một nhát vào vùng thái dương đỉnh phải của Hoàng Đình H gây tổn thương cơ thể cho H là 40%. N và H không có mâu thuẫn trong cuộc sống, chỉ nghi ngờ không có căn cứ và để thỏa mãn tính côn đồ, N đã dùng hung khí nguy hiểm là côn hai khúc vụt vào vùng đỉnh phải của H gây tổn thương cho H, đây là tình tiết định khung tăng nặng đối với bị cáo được quy định tại điểm a, điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình đã gây ra. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Hện Điện Biên truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét tính chất mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thấy rằng: Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ và làm ảnh hưởng đến nền trật tự trị an, an toàn trong xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Hành vi của bị cáo là thực sự rất nguy hiểm cho xã hội nên cần được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm khắc trước pháp luật.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo từ nhỏ sống phụ thuộc vào gia đình, được đi học hết lớp 12/12 thì ở nhà không tham gia công tác xã hội gì. Năm 2007 đi nghĩa vụ quân sự tại tỉnh Điện Biên, đến năm 2009 xuất ngũ và kết hôn với chị Trần Thị M, năm 2014 ly hôn với chị Miền. Bị cáo không có tình tiết nào tăng nặng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố và các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng huyện Điện Biên và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì, không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật và được chấp nhận.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra giữa bị cáo với bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã thống nhất thỏa thuận bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra bao gồm: Tiền viện phí và thuốc là 13.930.000 đồng, tiền tổn thất về sức khỏe, tinh thần, bị mất thu nhập khi điều trị vết thương đến khi lành và tiền thu nhập thực tế bị mất của vợ H là chị Vũ Thị N2 trong thời gian chăm sóc H tại bệnh viện 02 lần là 40.000.000 đồng. Tổng số tiền bồi thường là 53.930.000 đồng. Tại phiên tòa ngày hôm nay giữa bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có ý kiến giữa nguyên yêu cầu bồi thường thiệt hại như đã thỏa thuận trong quá trình điều tra . Xét thấy sự thỏa thuận của bị cáo với bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 584; 585, 586, 590 của Bộ luật Dân sự. HĐXX chấp nhận sự thỏa thuận đó.

[7]. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 chiếc côn hai khúc bằng gỗ, một đoạn dài 38cm, một đoạn dài 35 cm được nối với nhau bằng dây dù màu xanh dài 9,7 cm.

[8]. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm. Bị cáo với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thỏa thuận được với nhau về việc bồi thường thiệt hại trước khi Tòa án mở phiên tòa và đề nghị Tòa án ghi nhận việc bồi thường thiệt hại vào trong bản án, nên bị cáo không phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 134; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Quang N phạm tội “Cố ý gây thương tích”

- Xử phạt bị cáo Phạm Quang N 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 09/01/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự, Điều 584; 585, 586, 590 của Bộ luật Dân sự.

Chấp nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Phạm Quang N và bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu bị cáo N phải bồi thường cho bị hại Hoàng Đình H và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Vũ Thị N2 tổng số tiền là 53.930.000 đồng (Năm mươi ba triệu chín trăm ba mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bị hại Hoàng Đình H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Vũ Thị N2 có đơn yêu cầu thi hành án nếu bị cáo không tự nguyện thi hành đối với khoản tiền phải bồi thường, thì bị cáo phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc côn hai khúc bằng gỗ, một đoạn dài 38cm, một đoạn dài 35 cm được nối với nhau bằng dây dù màu xanh dài 9,7 cm.

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm. Bị cáo N không phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Căn cứ điều 26 Luật thi hành án dân sự: Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 20/5/2020. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 20/5/2020./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:93/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về