Bản án 93/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 93/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 271/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1985; địa chỉ: xóm C, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1986; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xóm C, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; Nơi ở hiện nay: xóm Q, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại Đơn khởi kiện đề ngày 02 tháng 12 năm 2019, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Văn H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Thị M lấy nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An vào ngày 17 tháng 9 năm 2008. Vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc cho đến năm 2011 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, chị M không tôn trọng anh H, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn trầm trọng nhất kể từ năm 2018, chị M đã bỏ nhà đi, anh H cũng đã khuyên nhủ chị M quay về nhưng chỉ được ít hôm chị M lại tiếp tục bỏ đi. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay. Nay anh H không còn tình cảm với chị M nữa nên yêu cầu được ly hôn.

Về con chung: anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Thị M có 02 con chung là Nguyễn Nhật M, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2009 và Nguyễn Tuấn V, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2013. Nếu ly hôn, anh H có nguyện vọng được nuôi cả hai con và không yêu cầu chị M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: anh Nguyễn Văn H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại bản tự khai, chị Nguyễn Thị M trình bày: thời gian kết hôn, thủ tục kết hôn đúng như anh Nguyễn Văn H trình bày. Theo chị M, sau ngày cưới vợ chồng sống với nhau hạnh phúc cho đến năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh H có người phụ nữ khác nên về nhà thường xuyên kiếm chuyện, gây sự, và nhiều lần còn vô cớ đánh đập chị M, đập phá đồ đạc trong gia đình. Năm 2018, anh H đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với chị M nhưng sau đó được Tòa án hòa giải nên vợ chồng đã quay về đoàn tụ. Tuy nhiên, do anh H vẫn có tình cảm với người phụ nữ khác nên vợ chồng vẫn thường xuyên cãi nhau và anh H đã đánh đập chị M nhiều lần. Nay chị M cũng không còn tình cảm với anh H nữa, anh H yêu cầu ly hôn thì chị M cũng đồng ý ly hôn.

Về con chung: chị Nguyễn Thị M và anh Nguyễn Văn H có 02 con chung đúng như anh H trình bày. Nếu ly hôn, chị M có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Nhật M, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2009 và giao cháu Nguyễn Tuấn V, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2013 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị M trình bày, chị M và anh Nguyễn Văn H đã xây dựng được một số tài sản chung gồm: nâng cấp nhà 40.000.000 đồng; ti vi trị giá 8.000.000 đồng; 02 máy điều hòa trị giá 10.000.000 đồng; máy giặt trị giá 3.500.000 đồng; giàn karaoke trị giá 15.000.000 đồng; bộ bàn ghế trị giá 10.000.000 đồng; giường 2.500.000 đồng; đệm trị giá 1.500.000 đồng; 02 tủ quần áo trị giá 6.500.000 đồng; bàn học của con trị giá 1.700.000 đồng; năm 2018 đào giếng nước sạch trị giá 18.000.000 đồng; cửa cuốn 7.000.000 đồng. Ngoài ra, chị M và anh H còn có nhà và đất tại xóm C, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An do bố mẹ anh H cho (nhưng vợ chồng chị M đã phải đưa cho bố mẹ anh H 30.000.000 đồng), thửa đất có chiều rộng 4,5m, chiều dài 20m. Chị M yêu cầu Tòa án giải quyết chia các tài sản trên.

Về nợ chung: chị Nguyễn Thị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã xác minh về nguyên nhân xẩy ra mâu thuẫn giữa anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Thị M. Kết quả phản ánh: nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn giữa anh H và chị M thì địa phương không nắm rõ. Tuy nhiên, từ tháng 8 năm 2019 đến nay chị M không sống chung với anh H nữa.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

- Ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho anh Nguyễn Văn H ly hôn chị Nguyễn Thị M. Về con chung: giao cháu Nguyễn Nhật M, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2009 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Nguyễn Tuấn V, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2013 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn chị M yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng nhưng không nộp tiền tạm ứng án phí nên miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Toà án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn (anh Nguyễn Văn H) yêu cầu Toà án giải quyết về việc ly hôn; bị đơn (chị Nguyễn Thị M) cư trú tại huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An giải quyết là đúng thẩm quyền.

Chị Nguyễn Thị M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị M vắng mặt không có lý do. Anh Nguyễn Văn H đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Vì vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Căn cứ vào khoản 3 Điều 210 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã Thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho chị M. Chị M cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 để tham gia phiên tòa nhưng chị M vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Mai.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Thị M là hôn nhân hợp pháp, không vi phạm các quy định về điều kiện kết hôn tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Thị M đều thừa nhận trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nay anh H và chị M đều xác định không còn tình cảm với nhau và đều đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Kết quả xác minh về nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh H và chị M phản ánh từ tháng 8 năm 2019 chị M đã không còn chung sống với anh H nữa. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa anh H và chị M đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, có căn cứ cho anh H được ly hôn chị M theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị M đang trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Nhật M, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2009 và anh Nguyễn Văn H đang trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Tuấn V, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2013. Cháu M có nguyện vọng được ở với chị M. Chị M cũng có nguyện vọng được nuôi cháu M, anh Hùng có nguyện vọng được nuôi cháu V. Xét nguyện vọng được nuôi con của anh H và chị M là hoàn toàn chính đáng. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi cho các cháu, cần giao cháu M cho chị M trực tiếp nuôi và giao cháu V cho anh H trực tiếp nuôi. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Hai bên có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con được quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: anh Nguyễn Văn H không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Tại bản tự khai ngày 09 tháng 01 năm 2020, chị Nguyễn Thị M yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản khi ly hôn. Tòa án ra Thông báo về việc thực hiện yêu cầu phản tố, yêu cầu chị M sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu phản tố và làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí nhưng chị M không thực hiện nên Tòa án không thụ lý yêu cầu của chị M. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: anh Nguyễn Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo Quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn H được ly hôn chị Nguyễn Thị M.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị M trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Nhật M, sinh ngày 07 tháng 9 năm 2009; Anh Nguyễn Văn H trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Tuấn V, sinh ngày 19 tháng 12 năm 2013. Hai bên không phải làm nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Hai bên có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

2. Về án phí: Anh Nguyễn Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án anh H đã nộp theo Biên lai số 0005808 ngày 02 tháng 12 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2020/HNGĐ-ST ngày 29/05/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:93/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về