Bản án 93/2018/HNGĐ-ST ngày 06/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 93/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 208/2018/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2018 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 127/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H ; địa chỉ: Thôn 6, xã H, huyện T, thành phố HảiPhòng; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Anh Trịnh Văn H ; địa chỉ: Thôn 6, xã H huyện T, thành phố Hải Phòng; hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ lưu giam Công an huyện Thủy Nguyên; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Vũ Thị Hòatrình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Trịnh Văn H kết hôn với nhau vào năm 2000 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H , huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng (Giấy chứng nhận kết hôn số 19 đăng ký ngày 02 tháng 4 năm 2000). Sau khi cưới, vợ chồng làm ăn sinh sống tại thôn 6, xã H, huyện T, Hải Phòng. Quá trình chung sống hòa thuận đến khoảng năm 2004 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, mặt khác anh H mắc vào tệ nạn xã hội và có hành vi vi phạm pháp luật về ma túy. Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh H .

- Về con chung: Chị H và anh H có 02 con chung là Trịnh Thị L , sinh ngày 03 tháng 10 năm 1998 và Trịnh Vũ Mai L sinh ngày 26 tháng 6 năm 2009. Khi ly hôn, chị H đề nghị được nuôi con Trịnh Vũ Mai L . Con chung tên Trịnh Thị L hiện nay đã trưởng thành và có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung để hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị H trình bầy vợ chồng không có tài sản chung nênkhông đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 15 tháng 6 năm 2018 anh Trịnh Văn H trình bầy: Anh H công nhận lời trình bày của chị H về điều kiện, thời gian và nơi đăng ký kết hôn là đúng. Anh H công nhận lời khai của chị H về con chung là đúng, hiện nay anh H đang bị tạm giam không có khả năng, điều kiện nuôi con. Anh H đồng ý với yêu cầu của chị H . Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung để hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, anh H và chị H không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng pháp luật. Tòa án đã xác định đúng thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định đúng quan hệ pháp luật và những người tham gia tố tụng. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn và đề nghị về con chung của nguyên đơn. Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời khai của chị Vũ Thị H tại Tòa án phù hợp với bản sao giấy đăng ký kết hôn, bản sao giấy khai sinh của con chung mà chị H đã giao nộp cho Tòa án, phù hợp với tài liệu xác minh tại Ủy ban nhân dân xã H. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện vợ chồng có mâu thuẫn khoảng từ năm 2004. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H mắc tệ nạn xã hội, có hành vi vi phạm pháp luật, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, khó có khả năng đoàn tụ. Cháu Trịnh Vũ Mai L có nguyện vọng ở với mẹ hoặc ở với bà nội đều được. Chị H có đủ khả năng, điều kiện nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Trịnh Văn H cư trú tại xã H, huyện T , thành phố Hải Phòng; hiện nay do đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ lưu giam công an huyện Thủy Nguyên nên anh H vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt; chị Vũ Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt vì bận công việc. Căn cứ Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có thẩm quyền xét xử vụ án này. Căn cứ Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

 [2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh H đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 19 đăng ký ngày 02 tháng 4 năm 2000) tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của đương sự, tài liệu điều tra xác minh đã xác định được mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh H .

 [3]. Về con chung: Chị H và anh H có hai con chung là là Trịnh Thị L ,sinh ngày 03 tháng 10 năm 1998 và Trịnh Vũ Mai L sinh ngày 26 tháng 6 năm2009. Con chung Trịnh Thị L hiện nay đã trưởng thành và có khả năng lao động, tòa án không đề cập giải quyết. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy, chị H đề nghị được trực tiếp nuôi conchung Trịnh Vũ Mai L , anh H đồng ý để chị H được trực tiếp nuôi con chung,anh H hiện nay đang bị tạm giam. Vì vậy, giao con Trịnh Vũ Mai L cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

 [4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H và anh H trình bày để hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

 [5]. Về tài sản chung: Chị H và anh H trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không đề nghị Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

 [6]. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H được ly hôn anh Trịnh Văn H .

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Vũ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Trịnh Vũ Mai L sinh ngày 26 tháng 6 năm 2009 cho đến khi con chung đủ mười tám tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008862 ngày 06 tháng 4 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Vũ Thị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2018/HNGĐ-ST ngày 06/07/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:93/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về