Bản án 93/2016/HSPT ngày 29/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 93/2016/HSPT NGÀY 29/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29/11/2017, tại Giảng đường B3 Trường Đại học Quảng Bình Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 83/2017/HSPT ngày 01/11/2017 đối với bị cáo Lê Đình T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 61/2017/HSST ngày 28/9/2017 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới.

Bị cáo kháng cáo:

Lê Đình T; tên gọi khác: T cận; sinh ngày 07 tháng 3 năm 1988 tại Quảng Bình; Nơi cư trú và chổ ở hiện nay: Số nhà 22 N, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Đình T1; sinh năm 1954 và bà: Cao Thị N, sinh năm 1955; có vợ Lê Thị N, sinh năm 1995 (Đã ly hôn) và 01con sinh năm 2013. Tiền án: không tiền sự: Ngày 06/3/2017 bị Công an thành phố Đồng Hới xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng; nhân thân ngày 28/12/2003 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng tại Đà Nẵng về hành vi trộm cắp tài sản. Sau đó về nhà học hết phổ thông trung học. Ngày 11/10/2006 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục 12 tháng tại Quảng Trị về hành vi cố ý gây thương tích. Ngày 19/5/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới xử phạt 03 năm cải tạo không giam giữ về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/4/2017 đến nay tại Trại giam Công an tỉnh Quảng Bình, có mặt tại phiên tòa theo lệnh trích xuất của Toà án.

Trong vụ án còn có người bị hại là chị Trần Thị S; sinh 1972; trú tại: Số nhà 26 A, đường N, tổ dân phố N, phường H, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình nhưng không có kháng cáo nên không triệu tập đến phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vu án được tóm tăt như sau:

Khoảng 19h00’ ngày 02/3/2017, Lê Đình T đi bộ ra phía sau nhà chị Trần Thị S là hàng xóm của T, số nhà 26A N, phường H, thành phố Đ tìm sơ hở để trộm cắp tài sản. Phát hiện cửa sổ phía sau tầng 1 nhà chị S không đóng, nên quay về nhà lấy tuốc nơ vít, đến tháo khung cửa sổ đột nhập vào bên trong. Tuấn vào phòng ngủ tầng 2, lấy trộm 01 máy tính bảng hiệu IPAD màu đen, 01 đồng hồ đeo tay nữ hiệu ROLEX màu bạc, 01 đồng hồ đeo tay nữ hiệu VERSACE màu bạc, 01 đồng hồ đeo tay nữ hiệu GUESS màu vàng và 01 con heo đất rồi đi lên hành lang tầng 3 đập vỡ heo đất, lấy 4.500.000 đồng. Sau đó T quay lại phòng ngủ tầng 2 dùng kéo của nhà chị S cạy phá cửa tủ gỗ, lấy trộm 01 lắc tay trọng lượng 1,8 chỉ vàng 18K, 01 lắc tay có mặt là tượng hãng CHANEL trọng lượng 5 chỉ vàng 18K, 01 nhẫn bằng mỹ kí màu vàng mặt có đính đá màu tím, 01 nhẫn đeo tay bằng mỹ kí màu vàng, mặt đính nhiều hạt đá, 01 đôi hoa tai bằng mỹ ký màu vàng có đính đá màu đen, 01 tượng gỗ hình chữ nhật bọc vàng 18K, 01 tượng gỗ hình phật di lặc bọc vàng 18K, 01 tượng phật di lặc bằng đá màu đen bọc vàng 18K, 01 tượng phật di lặc bằng đá màu đỏ bọc vàng 18K, 01 tượng phật di lặc bằng đá màu nâu sẫm bọc vàng 18K, 01 vòng đeo tay bằng gỗ có các hạt hình trụ tròn và tròn bọc vàng 18K, 01 vòng đeo tay bằng gỗ có các hạt hình tròn và trụ tròn màu nâu, 01 vòng đeo tay được gắn các hạt tròn màu trắng, 01 vòng đeo tay bằng đá màu đỏ, 01 vòng đeo tay bằng đá màu đen, 01 miếng kim loại hình tròn màu vàng, 01 dây chuyền bằng mỹ ký màu trắng bạc. Sau khi lấy trộm số trang sức nói trên bỏ vào túi quần thì phát hiện chị S về nhà nên hoảng sợ, bỏ chạy lên hành lang tầng 3, trèo lên sân thượng rồi nhảy qua mái nhà số 24 N. T giấu IPAD trên mái cầu thang nhà số 24 N rồi đi xuống, về nhà cất giấu số tài sản trộm được ở sàn gỗ phòng ngủ tầng 2.

Ngày 20/3/2017, T vào thành phố Đ bán 01 lắc tay dạng móc xích bằng vàng 18K được 1.700.000đ; 01 lắc tay có mặt là tượng hãng CHANEL trọng lượng 5 chỉ vàng 18K được 4.700.000đ cho một tiệm vàng không rõ địa chỉ, tiêu xài hết. T làm rơi mất 01 nhẫn vàng không rõ địa điểm. Số tiền bán vàng được, Tuấn tiêu xài cá nhân hết.

Ngoài ra bị hại còn khai mất 01 bộ trang sức gồm 01 sợi dây chuyền và 01 lắc đeo tay bằng vàng Ý đều có dạng dây xích có ba màu vàng - đỏ - bạc, có móc khóa đính ba hạt đá ruby xanh, trọng lượng 12 chỉ trị giá 42.000.000đ nhưng chị S không đưa ra được giấy tờ để chứng minh nên không có căn cứ .

Kết luận định giá số 198/KL-ĐG ngày 13/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thành phố Đồng Hới kết luận: 01 đồng hồ đeo tay nữ bằng kim loại màu trắng nhãn hiệu ROLEX mặt tròn viền đính đá trị giá: 1.000.000đ, 01 đồng hồ đeo tay nữ bằng kim loại màu vàng nhãn hiệu GUESS mặt hình vuông viền đính đá trị giá: 2.000.000đ, 01 đồng hồ đeo tay nữ bằng kim loại màu trắng nhãn hiệu VERSACE mặt hình tròn trị giá: 1.000.000đ, 01 đôi hoa tai bằng mỹ kí màu vàng đính đá màu đen trị giá: 100.000đ, 01 nhẫn đeo tay bằng mỹ kí màu vàng mặt đính nhiều hạt đá trị giá: 200.000đ, 01 tượng gỗ trầm hình trụ chữ nhật bọc vàng 18k trị giá: 13.000.000đ, 01 tượng gỗ huê hình phật di lặc màu nâu viền bọc vàng 18k trị giá: 14.000.000đ, 01 tượng đá hình phật di lặc màu đen viền bọc vàng 18k trị giá: 5.000.000đ, 01 tượng đá hình phật di lặc màu đỏ viền bọc vàng 18k trị giá: 3.000.000đ, 01 tượng đá hình phật di lặc màu nâu sẫm viền bọc vàng 18k trị giá: 1.500.000đ, 01 vòng đeo tay bằng gỗ có các hạt hình trụ tròn và tròn bọc vàng 18k trị giá: 4.000.000đ, 01 vòng đeo tay bằng gỗ có các hạt hình tròn và trụ tròn màu nâu trị giá: 500.000đ, 01 vòng đeo tay được gắn các hạt tròn màu trắng trị giá: 500.000đ, 02 vòng đeo tay được làm bằng đá: một loại được làm bằng hạt đá tròn màu  đen và một loại làm bằng các hạt đá màu đỏ, tổng trị giá: 100.000đ, 01 dây chuyền màu trắng bạc có gắn mặt đá hình tam giác trị giá:100.000đ, 01 máy tính bảng IPAD màu đen loại 16 GB trị giá: 3.000.000đ, 01 nhẫn đeo tay bằng mỹ kí mặt có đính đá màu tím trị giá: 1.000.000đ, 01 lắc tay bằng vàng 18k trọng lượng 1,8 chỉ dạng móc xích trị giá: 3.780.000đ, 01 lắc tay vàng tây có mặt là tượng hãng CHANEL trọng lượng 5 chỉ trị giá: 10.500.000đ. Một miếng kim loại hình tròn màu vàng không có giá trị. Một con heo đất bên trong có tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 4.500.000đ. Tổng tài sản chiếm đoạt: 68.780.000đ.

Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Đồng Hới đã thu giữ và trả lại cho chị Trần Thị S: 01 đồng hồ đeo tay nữ hiệu ROLEX màu bạc, 01 đồng hồ đeo tay nữ hiệu VERSACE màu bạc và 01 đồng hồ đeo tay nữ hiệu GUESS màu vàng, 01 nhẫn đeo tay bằng mỹ kí màu vàng, mặt đính nhiều hạt đá; 01 đôi hoa tai bằng mỹ ký màu vàng có đính đá màu đen, 01 tượng gỗ hình chữ nhật bọc vàng 18K, 01 tượng gỗ hình phật di lặc bọc vàng 18K, 01 tượng phật di lặc bằng đá màu đen bọc vàng 18K, 01 tượng phật di lặc bằng đá màu đỏ bọc vàng 18K, 01 tượng phật di lặc bằng đá màu nâu sẫm bọc vàng 18K, 01 vòng đeo tay bằng gỗ có các hạt hình trụ tròn và tròn, bọc vàng 18K, 01 vòng đeo tay bằng gỗ có các hạt hình tròn và trụ tròn màu nâu, 01 vòng đeo tay được gắn các hạt tròn màu trắng, 01 vòng đeo tay bằng đá màu đỏ, 01 vòng đeo tay bằng đá màu đen, 01 miếng kim loại hình tròn màu vàng, 01 dây chuyền bằng mỹ ký màu trắng bạc.

Chị S yêu cầu bồi thường giá trị số tài sản không thu hồi được gồm: 01 Ipad, 01 nhẫn đeo tay bằng mỹ kí mặt có đính đá màu tím, 01 lắc tay bằng vàng 18 k trọng lượng 1,8 chỉ dạng móc xích, 01 lắc tay vàng tây có mặt tượng hãng Chanel tổng trị giá 18.280.000đ và 4.500.000đ. Buộc bị cáo phải bồi thường số tiền cho bị hại số tiền toàn bộ là 22.780.000đ.

Từ những hành vi nêu trên tại bản án hình sự sơ thẩm số: 61/2017/HSST ngày 28/9/2017 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới đã tuyên bố bị cáo Lê Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ Luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Đình T 36 (Ba mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giam ngày 13/4/2017.

Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự Điều 584, 585, 589 Bộ Luật Dân sự 2015.

Xử buộc bị cáo Lê Đình T bồi thường cho chị Trần Thị S số tiền còn lại là 22.780.000 đồng.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, tuyên nghĩa vụ phải chịu án phí hình sự, tuyên quyền kháng cáo đối với bị cáo, người bị hại theo quy định của pháp luật Trong hạn luật định ngày 02/10/2017, bị cáo Lê Đình T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình, sau khi phân tích tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra đã đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt mà cần giữ y án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Vê tội danh và hình phạt đối với bị cáo Lê Đình T Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Lê Đình T khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy án sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới  tuyên bố   bị cáo Lê Đình T, phạm tội “ Trộm cắp tài sản” là   đúng người, đúng tội, có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Đình T, Hội đồng xét xử thấy: Do có ý định chiếm đoạt tài sản từ trước nên khoảng 19 giờ ngày 02/3/2017 Lê Đình T đã lợi dụng sự sơ hở của nhà chị S tại tầng 1 không đóng cửa, nên Tuấn đã đột nhập vào bên trong lấy trộm một số tài sản có giá trị 68.780.000 đồng. Sau khi vụ án phát hiện cơ quan điều tra đã thu hồi trả lại một số tài sản cho người bị hại, số còn lại chưa thu hồi có giá trị 22.780.000 đồng. Bị cáo phạm tội được quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự. Án sơ thẩm đã cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử bị cáo với mức án 36 tháng tù là phù hợp không nặng. Tại phiên toà phúc thẩm ngoài những tình tiết mà án sơ thẩm đã xem xét, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết mới để Hội đồng xét xử xem xét, do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[2]. Về án phí: Bị cáo Lê Đình T kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ Luật Tố tụng Hình sự, Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Đình T, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm.

1. Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Lê Đình T 36 tháng tù (Ba mươi sáu) về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/4/2017.

Duy trì Lệnh tạm giam số 78/2017/HSST-LTG ngày 02 tháng 11 năm 2017 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình đối với bị cáo Lê Đình T, thời hạn tạm giam từ ngày 12/11/2017 cho đến ngày 30/12/2017.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Lê Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (29/11/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

372
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 93/2016/HSPT ngày 29/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:93/2016/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về