Bản án 265/2018/HSPT ngày 26/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 265/2018/HSPT NGÀY 26/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào ngày 26 tháng 10 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 286/2018/TLPT-HS ngày 27 tháng 8 năm 2018 đối với Nguyễn Minh T về tội “Trộm cắp tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh T đối với Bản án số 28/2018/HS-ST ngày 20/07/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Minh T, Tên gọi khác: Đực, sinh ngày 25 tháng 2 năm 1999; tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 08, phường T2, Thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: 7/12; Con bà: Nguyễn Thị Thu T1, sinh năm 1968; Tiền án, tiền sự: không,

Quá trình nhân thân: Từ nhỏ, sống cùng với bố mẹ tại tổ 08, phường T2, Thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Học đến lớp 7/12 thì nghỉ học, ở nhà cho đến ngày phạm tội.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Bị bắt tạm giữ ngày 21/6/2018, tạm giam ngày 23/6/2018.(Có mặt tại phiên tòa).

Ngoài ra còn có 02 bị cáo, 03 bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có ý định trộm cắp tài sản để lấy tiền chơi game và sử dụng vào mục đích cá nhân, nên Trần Văn Th rủ đồng bọn đi trộm cắp tài sản tại các địa bàn Thị xã H và huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cụ thể như sau:

Vụ 1: Sau khi chơi game tại quán nét thuộc phường T22, Thị xã H thua hết tiền. Nên vào khoảng 0 giờ 00 phút ngày 03/7/2017, Trần Văn Th rủ Ngô Văn Th1, Nguyễn Minh T, Nguyễn Thanh P (sinh ngày 05/7/2001, trú tại: tổ 2, phường T22, Thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế) và Nguyễn Duy H (sinh ngày  14/9/2002, trú tại: tổ 1, phường T2, Thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế) đi trộm cắp tài sản. Bọn chúng đi bộ lang thang thì phát hiện trước hiên nhà của anh Nguyễn Nhật A (sinh năm 1985, trú tại: tổ 1, phường T2, Thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế) có dựng xe máy hiệu FASHION biển kiểm soát 75FD-185X, nên Th và Th1 lén lút vào lấy trộm còn T, P và H đứng ngoài cảnh giới.

Sau đó, Th1 điều khiển xe máy vừa lấy trộm được chở Th, P và H chạy lên hướng cầu vượt Thủy Dương, còn T đi bộ (do xe không chở hết bọn chúng).

Tang vật: Cơ quan điều tra thu giữ: 01 xe máy hiệu FASHION, màu sơn đen, biển kiểm soát 75FD-185X (Công an phường An Tây thu giữ).

Tại Bản kết luận định giá số 75/HĐ-ĐG ngày 01/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế, kết luận: Xe máy 75FD-1851 có giá trị là 2.340.000 đồng. Ngày 02/12/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế ra Quyết định xử lý vật chứng số 01/PC44 trả lại tài sản xe máy 75FD-185X cho chủ sở hữu anh Nguyễn Nhật Anh.

Vụ 2: Tiếp đến, vào khoảng 0 giờ 30 phút ngày 03/7/2017, khi Th1 điều khiển xe máy chở Th, P và H đến tổ 3, phường T3, Thị xã H. Bọn chúng phát hiện môtô hiệu XIONGSHI biển kiểm soát 75F6-845X của anh Lê Quý T4 (sinh năm 1981, trú tại: 55 đường PL, phường T3, Thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế) đang dựng trước hiên nhà. Nên Th lén lút vào lấy trộm, còn Th1, P và H đứng ngoài cảnh giới. Sau đó, Th điều khiển vừa lấy trộm được chở Th1, còn P điều khiển xe máy 75FD-185X chở H chạy về đón T và hẹn gặp nhau trên cầu vượt Thủy Dương.

Do xe máy 75FD-185X bị hư hỏng, nên bọn chúng đem cất giấu trước trường Thuận Hóa thuộc phường An Tây, thành phố Huế.

Tang vật: Cơ quan điều tra thu giữ: 01 xe môtô hiệu XIONGSHI màu đỏ, biển kiểm soát 75F6-845X (Công an phường A, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế thu giữ).

Tại Bản kết luận định giá số 231/HĐ-ĐG ngày 09/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế, kết luận: Xe môtô 75F6-845X có giá trị là 1.400.000 đồng.

Ngày 02/12/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế ra Quyết định xử lý vật chứng số 01/PC44 trả lại tài sản xe môtô 75F6-8450 cho chủ sở hữu anh Lê Quý Tuấn.

Vụ 3: Vào khoảng 01 giờ 00 phút ngày 03/7/2017, T điều khiển xe môtô BKS 75F6-8450 chở Th và Th1 tiếp tục chạy theo đường Quốc lộ 49 về huyện P để trộm cắp xe máy, còn P và H đứng đợi phía sau trường Đại học L. Bọn chúng phát hiện trước hiên nhà của ông Dương Văn H1 (sinh năm 1960, trú tại: Đội 1, xã PD, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế) có dựng xe môtô hiệu DEAM biển kiểm soát 75F4-8125, nên Th lén lút vào lấy trộm cắp, còn T và Th1 đứng ngoài cảnh giới. Sau khi lấy trộm được tài sản, bọn chúng chạy về chở P và H, rồi đến quán nét B ở phường T2 để chơi game. Còn xe môtô 75F6-8450 bị hư hỏng, nên bọn chúng cất giấu khu vực phía sau trường Đại học L thuộc phường A, thành phố H.

Khoảng trưa ngày 07/7/2017, trong lúc chơi tại quán game bắn cá thì Nguyễn Thanh P1 (sinh năm 1981, trú tại: 17 đường N, phường PB, Thị xã H) biết được Th và P muốn bán xe, nên P1 đã giới thiệu cho anh Phan Ngọc Th2 (sinh năm 1984, trú tại: 17A đường AD, phường PB, Thị xã H) mua xe. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, Phú dẫn Th và P đến quán cà phê “Không tên” ở phường PB gặp anh Th2 và anh Phan Văn Tr (sinh năm 1987, trú tại: 01 đường C, phường PB, Thị xã H, chủ quán cà phê), thì P1 nói với anh Th2 là “có 2 thằng em muốn bán xe Dream với giá 1.500.000 đồng”. Lúc này, do cần mua xe để làm phương tiện đi lại, nên anh Th2 đồng ý mua và đưa cho Phú số tiền 1.500.000 đồng. Sau đó, P1 chỉ đưa cho Th và P số tiền 1.000.000đồng, còn 500.000 đồng P1 lấy và trả nợ cho anh Th2.

Tang vật: Cơ quan điều tra thu giữ: 01 xe DEAM màu nho, không có man, biển kiểm soát 75F4-812X (anh Phan Ngọc Thực giao nộp).

Tại Bản kết luận về việc xác định chất lượng giá trị tài sản số 3014/HĐ-ĐG ngày 24/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Thừa Thiên Huế, kết luận: Xe môtô 75F4-812X có giá trị là 3.500.000 đồng.

Ngày 02/12/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế ra Quyết định xử lý vật chứng số 01/PC44 trả lại tài sản xe môtô 75F4-812X cho chủ sở hữu ông Dương Văn H1.

Như vậy, tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 7.240.000 đồng (Bảy triệu hai trăm bốn mươi ngàn đồng).

Ngoài ra, Trần Văn Th và Nguyễn Thanh P còn khai nhận thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn thành phố H, cụ thể như sau:

Vụ 1: Vào khoảng 0 giờ 00 phút ngày 11/7/2017, Trần Văn Th và Nguyễn Thanh P lén lút trộm cắp xe môtô hiệu Wave biển kiểm soát 75H7-348X của ông Ngô Th3 (sinh năm 1969, trú tại: 111/1 đường Đ, phường A1, thành phố H). Sau đó, bọn chúng mua biển kiểm soát 75F4-051X tại tiệm phế liệu ở phường T3 (không xác định được địa điểm), rồi gắn vào xe môtô để làm phương tiện đi lại, thì bị cơ quan Công an phát hiện thu giữ.

Tang vật: Cơ quan điều tra thu giữ, gồm:

- 01 khung xe môtô màu sơn đỏ-đen, có gắn biển kiểm soát 75F4-051X; 02 chiếc lốp xe môtô màu đen;

- 02 chiếc vành xe môtô; 01 ống bô xe môtô; 03 chiếc đầm gắn tăm xe môtô 01 nhông, xích xe môtô; 02 gác chân phía sau xe môtô và 01 vỏ đầu xe môtô (tất cả đều bị tháo rời) do Nguyễn Thanh P giao nộp.

Tại bản Kết luận về việc xác định chất lượng, giá trị tài sản số 2859/KL-HĐĐG ngày 03/11/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Thừa Thiên Huế, kết luận: Xe môtô 75H7-348X có giá trị là 1.650.000 đồng.

Ngày 02/12/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thừa Thiên Huế ra Quyết định xử lý vật chứng số 01/PC44 trả lại tài sản xe môtô 75H7-348X cho chủ sở hữu ông Ngô Thuận.

Vụ 2: Vào khoảng 0 giờ 00 phút ngày 13/7/2017, Trần Văn Th đến kiệt 16 đường DT, phường A, thành phố H lén lút trộm cắp xe môtô hiệu Wave (không rõ biển kiểm soát). Sau đó, Th và P bán cho ông Bùi Quang M (sinh năm 1955, trú tại: 63 đường A3, phường A4, thành phố H) với số tiền 500.000 đồng. Ông Minh bán lại cho người phụ nữ (không rõ nhân thân, lai lịch) với số tiền 800.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã tiến hành thông báo tìm bị hại và truy tìm vật chứng nhưng không có kết quả.

Tại bản án sơ thẩm 28/2018/HS-ST ngày 20/7/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999; các điểm s, r khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam: 21/06/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo khác; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/8/2018 bị cáo Nguyễn Minh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên trình bày quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, như sau: Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội và vai trò trong vụ án, bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo T 7 tháng tù là đúng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết gì mới; do đó đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Căn cứ vào lời khai bị cáo Nguyễn Minh T tại phiên tòa phúc thẩm và tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, đủ cơ sở kết luận: Do có ý định trộm cắp tài sản để lấy tiền chơi game và sử dụng cá nhân, nên Nguyễn Văn Th rủ Ngô Văn Th1, Nguyễn Minh T và các đối tượng khác thực hiện 04 vụ trộm cắp tài sản, chiếm đoạt tài sản trị giá 8.890.000 đồng; trong đó bị cáo T tham gia 02 vụ, giá trị tài sản chiếm đoạt 5.840.000 đồng (cả 02 lần giá trị tài sản chiến đoạt đều trên 2.000.000 đồng). Do đó Tòa án cấp sơ thẩm kết tội bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo T, nhận thấy: Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, vai trò đồng phạm trong vụ án; áp dụng đầy đủ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xử phạt 07 tháng tù là không nặng. Mặt khác trong giai đoạn xét xử phúc thẩm cũng không phát sinh tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Bị cáo kháng cáo không được cấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh T; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999; các điểm s, r khoản

1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam: 21/06/2018.

2. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu  200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 28/2018/HSST ngày 28/7/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 265/2018/HSPT ngày 26/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:265/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về