Bản án 92/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 92/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 4 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 115/2020/TLST -HNGĐ ngày 13 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Từ Hoàng E, sinh năm 1994. Địa chỉ: Ấp C, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau; có mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Hồng P, sinh năm 1997. Địa chỉ: Ấp Đ, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Người giám hộ cho chị Nguyễn Hồng P: Bà Đàm Thị H, sinh năm 1965. Địa chỉ: Ấp Đ, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 13/02/2020, biên bản hòa giải và tài liệu trong quá trình tố tụng vụ án, nguyên đơn Từ Hoàng E trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị P sống chung năm 2017, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau năm 2017. Hiện tại vợ chồng anh đã ly thân nhau. Chị P hiện đang trong tình trạng có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và đã có Quyết định của tòa về việc tuyên bố tình trạng khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Nguyên nhân ly hôn: Cuộc sống chung không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn thường thường xuyên xảy ra và không hàng gắn được. Nay anh yêu cầu ly hôn với chị P.

Về con chung: Anh xác định, thời gian chung sống hai người có một người con chung là cháu Từ Nguyễn Hồng L, sinh ngày 19/11/2017. Cháu hiện đang sống cùng với anh. Anh yêu cầu tiếp tục trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ: Anh xác định, trong thời kỳ hôn nhân giữa anh và chị P không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Tại biên bản hòa giải ngày 16/3/2020 và tại phiên tòa, người giám hộ bị đơn bà Đàm Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Bà thống nhất lời trình bày của anh E về thời gian chung sống, thời gian kết hôn. Hôn nhân do chị P tự nguyện lựa chọn. Bà không đồng ý yêu cầu ly hôn của anh E đối với chị P. Chị P hiện đang trong tình trạng có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và đã có Quyết định của tòa về việc tuyên bố tình trạng khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành mà nguyên nhân dẫn đến bệnh của chị P là do ông E gây ra, hiện chị P đang bệnh nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Bà xác định, thời gian chung sống, giữa chị P và anh E có một người con chung là cháu Từ Nguyễn Hồng L, sinh ngày 19/11/2017. Cháu hiện đang sống cùng với anh E. Bà yêu cầu giao con cho chị P được trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung: Bà xác định giữa anh Hoàng E và chị P trong thời gian chung sống không có tài sản chung nên không yêu cầu tòa án giải quyết. Tuy nhiên, chị P có tài sản riêng là 02 chỉ vàng 24K có được do bà cho chị P trước khi kết hôn với anh Hoàng E và số vàng này hiện nay anh Hoàng E đang mượn chị P chưa trả lại. Tại phiên tòa, bà xác định, đối với số vàng này bà và nguyên đơn tự thõa thuận với nhau, không yêu cầu tòa án giải quyết trong vụ án này.

Về nợ chung: Bà xác định thời gian chung sống, chị P và anh Hoàng E không có nợ chung, không yêu cầu tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau phát biểu quan điểm: Về thủ tục tố tụng, việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán chủ tọa từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các đương sự trong vụ án thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc được ly hôn với bị đơn, giao con chung cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng và bị đơn không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, yêu cầu của các bên đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn chị Nguyễn Hồng P có nơi trú tại ấp Đá Bạc, xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn anh Từ Hoàng E khởi kiện yêu cầu được ly hôn với chị Nguyễn Hồng P, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Do đó, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; anh Hoàng E là người khởi kiện, chị P là người bị kiện nên xác định tư cách đương sự anh Hoàng E là nguyên đơn, chị P là bị đơn theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh chị tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Khánh Bình Tây vào ngày 26/4/2017 đúng theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh Hoàng E và chị P được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, gia đình hai bên có hàn gắn nhưng không thành, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh Hoàng E xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị P và thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn, nếu các bên tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, các đương sự đều xác định chị P hiện đang trong tình trạng có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và đã có Quyết định của tòa về việc tuyên bố tình trạng khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của nêu trên. Hiện người giám hộ cho chị P là bà H đồng ý theo yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng E được ly hôn với chị P.

[3] Về con chung: Anh chị có một người con chung là cháu Từ Nguyễn Hồng L, sinh ngày 19/11/2017, cháu hiện đang sống với anh Hoàng E, anh yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu L. Xét, cháu L hiện chưa đủ tuổi để ghi nhận nguyện vọng của cháu theo quy định pháp luật nên cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của các bên đương sự để quyết định người trực tiếp nuôi dưỡng cháu, anh Hoàng E là người trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cháu L từ khi sinh ra cho đến nay, anh có nghề nghiệp và thu nhập ổn định đủ để đảm bảo cho cuộc sống của cháu, chị P hiện không phải là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu L, hiện nay chị đang trong tình trạng khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và đã có Quyết định của tòa án về việc tuyên bố chị hiện khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi đã có hiệu lực pháp luật, với tình trạng hiện nay của chị P không đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu L sau khi anh chị ly hôn nhau theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân gia đình, việc giao cháu L cho chị P vào thời điểm hiện tại không đảm bảo cho sự phát triển về thể chất và tin thần của cháu L. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu L cho anh Hoàng E trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện cụ thể của các bên, đúng với quy định của pháp luật.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Hoàng Em không yêu cầu bị đơn có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu L, đây là ý chí tự nguyện của Hoàng E nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H và anh Hoàng E đều xác định trong thời kỳ hôn nhận giữa anh Hoàng E và chị P không có tài sản chung và nợ chung chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với yêu cầu của bà H về việc yêu cầu anh Hoàng E giao trả lại cho chị P 02 chỉ vàng 24K là vàng mà anh Hoàng E mượn riêng của chị P. Tuy nhiên, tại phiên tòa bà xác định bà và anh Hoàng E tự thõa thuận với nhau về số vàng nêu trên nên bà không yêu cầu tòa án giải quyết trong vụ án này, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc anh Từ Hoàng E phải chịu tiền án phí sơ thẩm về hôn nhân và gia đình, chị P không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 và khoản 3 Điều 68, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 235 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Từ Hoàng E về việc ly hôn với chị Nguyễn Hồng P.

2. Về con chung: Giao con chung Từ Nguyễn Hồng L, sinh ngày 19/11/2017 cho anh Từ Hoàng E trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Nguyễn Hồng P không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Chị Nguyễn Hồng P không phải cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Anh Từ Hoàng E phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình, anh có nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003257 ngày 13 tháng 02 năm 2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu đối trừ, anh Từ Hoàng E không phải nộp tiếp.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2020/HNGĐ-ST ngày 28/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:92/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về