Bản án 92/2020/HNGĐ-ST ngày 06/10/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 92/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/10/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 366/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thuý L, sinh năm 1993; hộ khẩu thường trú: Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; tạm trú: Khu phố B, phường A, thị xã T, tỉnh Tây Ninh; (có mặt).

- Bị đơn: Anh Phạm Đức M, sinh năm 1986; hộ khẩu thường trú: Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; tạm trú: khu phố B, phường A, thị xã T, tỉnh Tây Ninh; (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21 tháng 4 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị Thuý L trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh M chung sống với nhau từ năm 2009, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại huyện T, tỉnh Lâm Đồng, đến năm 2017 thì chuyển về sống ở khu phố B, phường A, thị xã T, tỉnh Tây Ninh. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016, 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do chị có mối quan hệ với người đàn ông khác. Sau đó, vợ chồng đã hàn gắn và vẫn chung sống với nhau, nhưng thường xuyên cãi vã, do anh M thường nhắc lại chuyện cũ, anh M khi say rượu có đánh chị. Vợ chồng không còn tin tưởng nhau, anh M luôn nghi ngờ chị còn có mối quan hệ với người đàn ông khác nên thường gây gổ. Nhận thấy tình cảm vợ chồng đã không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh M.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Phạm Thanh X, sinh ngày 16/4/2012, hiện đang sống chung nhà trọ với vợ chồng. Khi ly hôn, chị đề nghị được nuôi con, không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 15 tháng 6 năm 2020 và trong quá trình giải quyết, anh M trình bày: Anh thống nhất lời trình bày của chị L về thời gian chung sống, con chung, tài sản chung, nợ chung và nguyên nhân mâu thuẫn là đúng. Anh thừa nhận có đánh vợ nhưng nguyên nhân là do say rượu không kiềm chế được, vợ chồng cãi vã gây gổ cũng do lúc trước chị L làm chuyện có lỗi với anh. Anh còn thương vợ, thương con và mong muốn được đoàn tụ.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Phạm Thanh X, sinh ngày 16/4/2012. Nếu Toà án giải quyết cho chị L và anh ly hôn, anh đề nghị được nuôi con, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu toà án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Việc thụ lý vụ án, xác định thẩm quyền, Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm, đảm bảo đúng thành phần Hội đồng xét xử, phạm vi xét xử, trình tự thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị Thuý L đối với anh Phạm Đức M.

Về con chung: Giao cháu Phạm Thanh X, sinh ngày 16/4/2012 cho chị L trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có tranh chấp nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, XÉT THẤY

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Thuý L và anh Phạm Đức M chung sống với nhau từ năm 2009, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn năm 2012 tại Uỷ ban nhân dân Phường X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Do đó, có căn cứ xác định quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh M là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

[2] Về nguyên nhân mâu thuẫn: Chị L trình bày vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ khoảng năm 2016, 2017, do chị có mối quan hệ với người đàn ông khác, sau đó vợ chồng đã hàn gắn nhưng anh M thường xuyên nhắc lại chuyện cũ, vợ chồng từ đó thường hay cãi vã, gây gổ vì anh M ghen tuông. Anh M khi say rượu có đánh chị nhiều lần. Anh M cũng thừa nhận có đánh chị L nhưng cho rằng là do say rượu không kiềm chế được, và nguyên nhân cũng do lúc trước chị L từng có lỗi với anh. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị L và anh M đã trầm trọng, vợ chồng không còn tin tưởng nhau, thường xuyên cãi vã. Tại phiên toà, chị L vẫn kiên quyết được ly hôn với anh M. Anh M mong muốn được đoàn tụ nhưng không có hành động hay biện pháp cụ thể để hàn gắn tình cảm vợ chồng, vẫn không tin tưởng vợ. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị L đối với anh M là phù hợp.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung và Phạm Thanh X, sinh ngày 16/4/2012. Xét thấy cháu X là cháu gái, cháu có nguyện vọng được sống với mẹ. Chị L có nghề nghiệp, mức lương ổn định, thuận tiện cho việc chăm sóc cho con nên cần giao cháu X cho chị L trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Ghi nhận chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Chị L, anh M không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5] Về nợ chung: Chị L, anh M trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Điều 235, Điều 264 và Điều 267 Bộ luật Tố tụng dân sự:

 Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Trần Thị Thuý L đối với anh Phạm Đức M.

Chị Trần Thị Thuý L được ly hôn với anh Phạm Đức M.

Về con chung: Giao cháu Phạm Thanh X, sinh ngày 16/4/2012 cho chị L trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh M không phải cấp dưỡng nuôi con do chị L không yêu cầu. Anh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được ngăn cản. Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Chị L, anh M trình bày không có, không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Chị Trần Thị Thuý L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Trăm đã nộp theo biên lai thu số 0018367 ngày 13/7/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; chị L đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2020/HNGĐ-ST ngày 06/10/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:92/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về