TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 57/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 21 tháng 9 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 323/2018/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2018, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/8/2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2018/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2018 và Thông báo thay đổi lịch xét xử số 09/TB-TA ngày 14 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Như H – sinh năm 1986
Địa chỉ: Số nhà 75, Tổ 2, ấp P.M 1, xã P.L, huyện T.P, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Anh Làu Thín S – sinh năm 1986
Địa chỉ: Ấp P.T, xã P.B, huyện T.P, tỉnh Đồng Nai.
(Chị H có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, anh S vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 19/7/2018 và lời khai trong quá trình thụ lý hòa giải, nguyên đơn chị Trần Thị Như H trình bày:
- Về hôn nhân: Chị H và anh S kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P.B ngày 10/10/2007 và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo luật định. Vợ chồng chung sống đến năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, thường cãi nhau, bản thân anh S ghen tuông vô cớ, thường hay đi nhậu rồi kiếm chuyện chửi bới, đánh đập chị. Từ khoảng tháng 5/2012 cho đến nay, anh chị đã không còn chung sống và không còn liên hệ quan tâm, chăm sóc nhau. Chị nhận thấy tình cảm không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh.
- Về con chung: Chị H trình bày có 01 (một) con chung là cháu Làu Tấn T – sinh ngày 29/11/2008, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con. Từ khi không còn chung sống vào tháng 5/2012 cho đến nay, chị là người nuôi dưỡng con chung đảm bảo điều kiện sinh sống cho cháu về mọi mặt.
- Về tài sản chung, nợ chung: Chị H trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nguyên đơn đã giao nộp kèm theo đơn khởi kiện những tài liệu, chứng cứ sau đây: Chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của nguyên đơn (Bản sao), Trích lục kết hôn (Bản sao), Giấy khai sinh con chung (Bản sao), Đơn xin xác nhận hộ khẩu thường trú đối với bị đơn. Tòa án đã tiến hành sao gửi các tài liệu chứng cứ trên cho bị đơn.
Để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập những tài liệu, chứng cứ sau: Bản tự khai của nguyên đơn; Đơn yêu cầu xác minh, Đơn đề nghị Tòa án hỗ trợ, Đơn thể hiện nguyện vọng của con chung, Đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân và nuôi con chung của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú. Tòa án đã tiến hành thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ cho các đương sự.
Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự không có thay đổi, bổ sung ý kiến, đề nghị của mình; anh S không có yêu cầu phản tố. Các đương sự không giao nộp, bổ sung thêm tài liệu chứng cứ nào khác, không yêu cầu triệu tập đương sự, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác.
Phát biểu của Kiểm sát viên:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn triệu tập hợp lệ 02 lần không đến nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định của pháp luật.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện của chị H. Về hôn nhân: Cho chị H được ly hôn với anh S. Về con chung: Giao con chung Làu Tấn T – sinh ngày 29/11/2008 cho chị H nuôi dưỡng, tạm thời miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh S. Về tài sản chung, nợ chung: Chị H kê khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh S không có văn bản trình bày ý kiến, vì vậy tách ra giải quyết vụ án khác khi có tranh chấp. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:
- Bị đơn anh Làu Thín S có nơi cư trú tại xã P.B, huyện T.P, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Chị Trần Thị Như H khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với anh S, tranh chấp về nuôi con chung. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; chị H là người khởi kiện nên xác định tư cách đương sự chị là nguyên đơn, anh S là bị đơn được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vẫn vắng mặt tại phiên họp, phiên hòa giải không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan. Vì vậy, Tòa án không thu thập được tài liệu, chứng cứ thể hiện ý kiến, yêu cầu của bị đơn, không tiến hành hòa giải được theo khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Chị H có đơn xét xử vắng mặt, bị đơn anh S đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.
[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:
- Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị H và anh S được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã P.B và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật, vào sổ cấp giấy số 90 ngày 10/10/2007. Như vậy, hôn nhân của anh chị là hợp pháp.
Chị H trình bày anh chị có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, thường cãi nhau, bản thân anh S ghen tuông vô cớ, thường hay đi nhậu rồi kiếm chuyện chửi bới, đánh đập chị, mặc dù chị đã nhiều lần cho khuyên can nhưng anh không thay đổi, anh chị đã nói chuyện để hòa giải đoàn tụ nhưng không thành. Từ khoảng tháng 5/2012 cho đến nay, anh chị đã không còn chung sống và không còn liên hệ quan tâm, chăm sóc nhau. Bản thân anh S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không đến Tòa án tham gia tố tụng, qua đó thể hiện anh S có thái độ bỏ mặc, không quan tâm đến chị H, không có thiện chí đoàn tụ gia đình. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ về tình trạng hôn nhân tại địa phương cũng phù hợp với lời khai chị H.
Như vậy, có đủ cơ sở để xác định, chị H và anh S đã không còn tình cảm thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị H được ly hôn với anh S.
- Về nuôi con chung: Chị H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là Làu Tấn T – sinh ngày 29/11/2008, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ về nuôi con chung tại địa phương và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ thể hiện: Từ sau khi anh chị không còn sống chung khoảng tháng 5/2012, con chung đang do chị H trực tiếp nuôi dưỡng; bản thân chị H có lối sống đạo đức tốt, có trách nhiệm chăm sóc con chung; anh S không có nghề nghiệp ổn định, chị H làm nghề nghề in ấn Phô-tô-cop-pi với mức thu nhập trung bình khoảng trên 10.000.000đ (Mười triệu đồng)/tháng, ngoài ra chị còn được cha mẹ ruột của mình hỗ trợ phụ giúp chăm sóc cháu, nên chị đủ khả năng nuôi dưỡng con chung. Căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu nuôi con chung của chị H là có cơ sở, phù hợp với nguyện vọng của con chung nên chấp nhận giao con chung cho chị H nuôi dưỡng, tạm thời miễn cho anh S nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Chị H kê khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh S không có văn bản trình bày ý kiến và yêu cầu, vì vậy tách ra giải quyết vụ án khác khi có tranh chấp.
[3] Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm về lyhôn.
[4] Quan điểm của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 238 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Điều 19, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về yêu cầu khởi kiện: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Như H.
- Về hôn nhân: Cho chị Trần Thị Như H được ly hôn với anh Làu Thín S.
- Về nuôi con chung: Giao con chung là Làu Tấn T – sinh ngày 29/11/2008 cho chị H nuôi dưỡng, tạm thời miễn cho anh S nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Anh S có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung chưa thành niên, các đương sự có quyền xin thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Thị Như H kê khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Làu Thín S không có văn bản trình bày ý kiến và yêu cầu, vì vậy tách ra giải quyết vụ án khác khi có tranh chấp.
2. Về án phí: Chị Trần Thị Như H phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 007116 ngày 27/7/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai được chuyển thành án phí.
3. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (Sửa đổi, bổ sung năm 2014).
4. Về quyền kháng cáo: Chị H và anh S được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 57/2018/HNGĐ-ST ngày 21/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 57/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về