TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 92/2019/HS-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 90/2019/HSST ngày 30 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Trần Bình T, sinh ngày 30/01/1999 tại tỉnh Bến Tre; Nơi ĐKNKTT: Ấp A, xã B, huyện T, tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú hiện nay: Ấp T, xã X, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H và bà Huỳnh Thị T; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 38/2016/HSST ngày 21/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước tuyên phạt Trần Bình T 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” và 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, do thời điểm phạm tội bị cáo T chưa đủ 18 tuổi nên không xem là có án tích; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/9/2019 đến ngày 20/9/2019 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt;
2. Bùi Công Đ, sinh năm 1997 tại tỉnh Bình Phước; Nơi cư trú: Ấp D, xã M, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Công P (đã chết) và bà Trần Thị H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 14/9/2019 đến ngày 20/9/2019 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt;
- Bị hại:
+ Anh Trịnh Linh D, sinh năm 1997;
Nơi cư trú: Ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Tây Ninh, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ 00 phút ngày 12/9/2019, bị cáo Trần Bình T cùng với Nguyễn Thị Ngọc M, sinh năm 2003, ngụ thôn P, xã I, huyện G, tỉnh Gia Lai đi từ thành phố Hồ Chí Minh đến nhà bị cáo Bùi Công Đ ở ấp D, xã M, huyện T, tỉnh Tây Ninh để chơi. Khoảng 23 giờ 00 phút cùng ngày, bị cáo T dùng xe mô tô của mình hiệu Wave biển số 29R3-8443 chở bị cáo Đ đến quán cà phê L, thuộc ấp 1, xã M, huyện T, tỉnh Tây Ninh để mua thuốc hút, lúc đi về bị cáo T nhìn thấy chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu vàng biển số 70T1-4850 của anh T, sinh năm 1997, ngụ ấp A, xã M, huyện T, tỉnh Tây Ninh đang dựng ở sân quán không có người trông coi. Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 13/9/2019, khi về đến nhà của bị cáo Đ, bị cáo T rủ bị cáo Đ quay lại quán cà phê để trộm xe mô tô của anh D thì bị cáo Đ đồng ý, bị cáo T điều khiển xe mô tô của mình chở bị cáo Đ quay lại quán L, để xe bên ngoài, bị cáo T và bị cáo Đ đi vào quán, bị cáo T lấy trộm xe mô tô của anh D đẩy ra ngoài, đưa cho bị cáo Đ điều khiển, bị cáo T điều khiển xe mô tô của mình kè theo dùng chân đẩy xe mô tô Exciter trộm được về nhà của bị cáo Đ. Khi về đến nhà của bị cáo Đ, bị cáo T lấy chìa khóa xe Wave của mình mở khóa xe mô tô Exciter rồi hai bị cáo T, Đ và M cùng đi sang tỉnh Bình Phước để tiêu thụ xe trộm được. Khi phát hiện xe bị mất trộm, anh D nghi ngờ bị cáo Đ lấy trộm nên nói lại cho chị Bùi Thị P, sinh năm 1993, ngụ ấp D, xã M, huyện T là chị ruột của bị cáo Đ, chị T gọi điện thoại cho bị cáo Đ và kêu bị cáo Đ mang xe lấy trộm về trả lại cho anh D. Đến 21 giờ 00 phút ngày 13/9/2019, bị cáo T và bị cáo Đ đến Công an huyện T, tỉnh Tây Ninh để đầu thú và giao nộp xe mô tô đã trộm cắp.
Tại cơ quan điều tra, các bị cáo Trần Bình T và Bùi Công Đ đã khai nhận rõ toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
* Kết luận định giá tài sản:
Tại Kết luận định giá tài sản số 36/KL-HĐĐG ngày 19/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh kết luận: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu vàng, đen biển số 70T1-4850 tại thời điểm bị các bị cáo trộm cắp có giá trị là 18.000.000 đồng.
* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng, tài sản:
- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu vàng, đen biển số 70T1-4850;
Ngày 03/10/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Biên ra Quyết định xử lý vật chứng số 44/QĐ-CQCSĐT trả lại cho anh Trịnh Linh D là chủ sở hữu hợp pháp;
* Phần trách nhiệm dân sự: Anh Trịnh Linh D đã nhận lại 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu vàng, đen biển số 70T1-4850 nên không yêu cầu các bị cáo Trần Bình T và Bùi Công Đ bồi thường gì thêm.
Bản Cáo trạng số 95/CT-VKSTB, ngày 28 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh đã truy tố các bị cáo Trần Bình T và Bùi Công Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát huyện Tân Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Trần Bình T và Bùi Công Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị:
Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Bình T từ 15 đến 18 tháng tù.
Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Bùi Công Đ từ 12 đến 15 tháng tù.
Các bị cáo Trần Bình T và Bùi Công Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên truy tố và không có ý kiến tranh luận.
Bị hại anh Trịnh Linh D vắng mặt và trong quá trình điều tra không yêu cầu bị cáo bồi thường tài sản bị thiệt hại.
Lời nói sau cùng: Các bị cáo Trần Bình T và Bùi Công Đ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi và quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Chứng cứ xác định các bị cáo có tội: Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 13/9/2019, tại ấp 1, xã M, huyện T, tỉnh Tây Ninh, các bị cáo Trần Bình T và Bùi Công Đ cùng nhau lén lút thực hiện hành vi trộm cắp của anh Trịnh Linh D 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter có giá trị 18.000.000 đồng. Hành vi của các bị cáo Trần Bình T và Bùi Công Đ đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
[3] Do đó, Bản Cáo trạng số 95/CT-VKSTB, ngày 28 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh truy tố các bị cáo Trần Bình T và Bùi Công Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Nên cần xử các bị cáo mức án nghiêm khắc và cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để có điều kiện cải tạo, giáo dục hai bị cáo và phục vụ cho công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[6] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Trần Bình T và Bùi Công Đ đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi lấy trộm được tài sản cả hai bị cáo đã đến cơ quan công an đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Bùi Công Đ phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên việc đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên là có cơ sở chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần mức án khi quyết định hình phạt.
[7] Về nhân thân: Đối với bị cáo Trần Bình T: Ngày 21/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” và 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” do thời điểm phạm tội bị cáo T chưa đủ 18 tuổi nên không xem là có án tích nhưng điều đó thể hiện nhân thân của cáo xấu.
[8] Qua xem xét toàn bộ nội dung và quá trình thực hiện tội phạm của các bị cáo thể hiện đây là vụ án đồng phạm có tính giản đơn, không có sự bàn bạc, câu kết chặt chẽ mà các bị cáo rủ nhau cùng thực hiện hành vi phạm tội. Trong vụ án này bị cáo Trần Bình T giữ vai trò chính, là người rủ rê bị cáo Bùi Công Đ cùng thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe máy của anh Trịnh Linh D có giá trị 18.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử xem xét và xử bị cáo T mức án nghiêm khắc cao hơn bị cáo Đ.
Hình phạt bổ sung: Xét điều kiện kinh tế, khả năng thi hành của hai bị cáo không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với hai bị cáo.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Trịnh Linh D đã nhận lại tài sản, không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[9] Về xử lý vật chứng:
- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu vàng, đen biển số 70T1-4850, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Biên xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu anh Trịnh Linh D là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[10] Về án phí: Các bị cáo Trần Bình T và Bùi Công Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định theo Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Bình T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 14/9/2019.
1.2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Bùi Công Đ 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 14/9/2019.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo Trần Bình T, Bùi Công Đ mỗi bị cáo chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 92/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 92/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về