Bản án 92/2019/HS-ST ngày 13/08/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 92/2019/HS-ST NGÀY 13/08/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 92/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Trần Văn B; sinh năm 1985 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn B1 (chết) và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1962; vợ, con: chưa có; nhân thân: Bản án số 1353/HSST ngày 23/9/2002 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, Bản án số 26/2008/HSST ngày 25/02/2008 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Bản án số 42/2009/HSST ngày 20/3/2009 Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt chưa chấp hành của Bản án số 26/2008/HSST ngày 25/02/2008 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh là 01 năm 01 tháng 02 ngày tù, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 04 năm 01 tháng 02 ngày tù; tiền án: Bản án số 156/2016/HSST ngày 27/5/2016 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/10/2018; tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ: 14/11/2018. Có mặt.

2. Trần Thanh T; sinh năm 1988 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn N, sinh năm 1958 và bà: Đinh Thị Thu H, sinh năm 1968; vợ, con: chưa có; nhân thân: Bản số 246/2011/HSST ngày 15/9/2011 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; tiền án: không; tiền sự: Quyết định số 0012904/QĐ-XPVPHC ngày 29/11/2017 Công an phường Tân Thành, quận Tân Phú xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, đóng phạt ngày 21/3/2018; bị bắt, tạm giữ: 22/11/2018. Có mặt.

- Bị hại: Chị Nguyễn Ngọc Minh T, sinh năm 1987; nơi cư trú: 53/3A Hà Huy Giáp, phường Thạnh Lộc, Quận 12, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Nga, sinh năm 1964, nơi cư trú: 23/22 Phú Lộc, Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ ngày 14/11/2018, Trần Văn B điều khiển xe gắn máy biển số 51R2-9319 đến nhà Trần Thanh T và rủ Tài đi cướp giật tài sản. T đồng ý và điều khiển xe máy trên chở B đi lòng vòng tìm tài sản sơ hở để cướp giật. Khi cả hai đi đến trước số 181/1 Nghĩa P, Phường A, quận B, T phát hiện chị Nguyễn Ngọc Minh T đang ngồi trên xe máy dựng trước nhà sử dụng điện thoại di động. T chỉ cho Bằng thấy rồi quay xe ngược chiều, áp sát bên trái chị T, B ngồi sau dùng tay trái giật trúng điện thoại của chị T làm điện thoại rơi xuống đường. Chị T tri hô, được quần chúng hỗ trợ tông xe vào xe của tài đang điều khiển làm Tài và Bằng té ngã. T bỏ xe chạy bộ thoát còn Bằng bị bắt quả tang giao Công an Phường 6, quận Tân Bình xử lý. Qua truy xét, ngày 21/11/2019, cơ quan công an mời Trần Thanh T làm việc.

Ti Cơ quan công an, Trần Văn B và Trần Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi cùng nhau điều khiển xe gắn máy cướp giật điện thoại di động của chị Nguyễn Ngọc Minh T như trên.

Vt chứng thu giữ:

- 01 điện thoại di động hiệu Sony Xperia màu hồng là tài sản của chị T, đã trả lại cho chị T, chị T không có yêu cầu gì thêm. Kết quả định giá trong tố tụng hình sự, điện thoại trên trị giá 2.500.000 đồng.

- 01 xe gắn máy hiệu Furute, biển số 51R2-9319 là phương tiện gây án. B cho biết mượn của cô ruột bà Nguyễn Thị N. Bà N cho biết mua xe gắn máy trên vào khoảng tháng 4/2018 từ 01 người thanh niên không rõ lai lịch với giá 3.500.000 đồng, xe có giấy tờ nhưng bà đã làm thất lạc. Vào ngày 14/11/2018, bà cho B mượn đi công việc, bà không biết B sử dụng xe làm phương tiện đi cướp giật. Bà N có yêu cầu nhận lại xe.

Kết quả xác minh, xe do chị Phạm Nguyễn Ngọc A đứng tên sở hữu. Hiện chị Ngọc A đã bán nhà, không có mặt tại địa phương, không rõ nơi đến. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình đã tiến hành đăng báo nhưng chưa có kết quả.

- 01 điện thoại di động hiệu Coolpad màu xanh đen thu giữ của Bằng.

Ti bản cáo trạng số 90/CT-VKS ngày 16 tháng 7 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố các bị cáo Trần Văn B về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự; Trần Thanh T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát tại phần luận tội đã tóm tắt lại hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu ra các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nêu rõ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ đối với các bị cáo và đề nghị xử phạt bị cáo B từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù, bị cáo T từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không tranh luận gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức án dành cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Trần Văn B, Trần Thanh T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của họ đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận các bị cáo Trần Văn B và Trần Thanh T có hành vi điều khiển xe gắn máy áp sát rồi công khai giật lấy 01 điện thoại di động hiệu Sony Xperia màu hồng trị giá 2.500.000 đồng của chị Nguyễn Ngọc Minh T, đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, bị cáo B đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”, là những tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất táo bạo, liều lĩnh ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác ngay trên đường phố nơi đông người và dùng thủ đoạn nguy hiểm là xe gắn máy phân khối lớn, là nguồn nguy hiểm cao độ làm phương tiện phạm tội, tiềm ẩn nguy cơ dễ gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bị hại và những người đang lưu thông trên đường. Xét về tính chất vụ án là nghiêm trọng, các bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức hành vi cướp giật tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài nên các bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, chứng tỏ các bị cáo có thái độ coi thường pháp luật. Xét nhân thân bị cáo T là xấu, bị cáo đã bị kết án nhưng không lấy làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo các bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Ngọc Minh T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng:

- 01 điện thoại di động hiệu Coolpad màu xanh đen thu giữ của bị cáo B. Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 xe gắn máy hiệu Furute, biển số 51R2-9319 thu giữ của bị cáo B. Hội đồng xét xử xét thấy xe gắn máy trên có nguồn gốc chưa rõ ràng, cần giao Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình đăng báo tìm chủ sở hữu trong một thời gian nhất định, quá thời hạn trên không có ai đến nhận thì lập thủ tục nộp ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Văn B;

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trần Thanh T;

Căn cứ Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố các bị cáo Trần Văn B, Trần Thanh T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo: Trần Văn B 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 14/11/2018.

Xử phạt bị cáo: Trần Thanh T 04 (bốn) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt 22/11/2018.

[2] Trả lại cho bị cáo Trần Văn B 01 điện thoại di động hiệu Coolpad màu xanh đen, số imeil 1: 864620040091787, số imeil 2: 864620040066185.

Giao Chi cục thi hành án dân sự quận Tân Bình đăng báo tìm chủ sở hữu 01 xe gắn máy hiệu Furute màu đỏ đen trắng, biển số 51R2-9319, số khung: RMCWCH4UM61000058, số máy: ZS152FMH050058 trong thời gian 01 năm, quá thời hạn trên không có ai đến nhận thì lập thủ tục nộp ngân sách Nhà nước.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 110/PNK ngày 06/6/2019 của Công an quận Tân Bình).

[3] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

[4] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2019/HS-ST ngày 13/08/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:92/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về