Bản án 92/2019/HNGĐ-ST ngày 13/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 92/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 13 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 137/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 220/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Thái Thị Hồng N, sinh năm: 1996.

Địa chỉ: Ấp T (ấp 3), xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Anh Lê Văn S, sinh năm: 1991.

Địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện G, tỉnh Bến Tre.

Tại phiên tòa, chị N có mặt, anh S vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn là chị Thái Thị Hồng N trình bày:

Vào năm 2012, qua thời gian tìm hiểu và được sự cho phép của gia đình hai bên, chị và bị đơn là anh Lê Văn S đi đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre vào ngày 08/6/2016. Quá trình chung sống vợ chồng chị có một người con chung tên là Lê Khả H, sinh ngày 02/4/2013. Cuộc sống vợ chồng chị thời gian đầu hạnh phúc, không có mâu thuẫn. Thế nhưng từ năm 2018, vợ chồng chị phát sinh mâu thuẫn do không hợp ý nhau. Hiện, vợ chồng chị đã ly thân. Do mâu thuẫn giữa vợ chồng chị đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S. Hiện, cháu H đang sống với chị, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh S cấp dưỡng cho con.

Chị và anh S không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đã thông báo và tổ chức các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đồng thời mở phiên tòa xét xử vụ án nhưng anh S đều vắng mặt không lý do và không có ý kiến phản đối đối với yêu cầu khởi kiện của chị N.

Tại phiên tòa, chị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện do trong thời gian chung sống anh S không lo làm việc, chỉ lo tụ tập bạn bè, sa vào các tệ nạn xã hội. Thời gian qua anh S vẫn không sửa đổi. Chị và anh S không chung sống với nhau từ tháng 02/2019 cho đến nay.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án:

Thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Chị N thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự, anh S chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Thái Thị Hồng N về việc xin ly hôn với anh Lê Văn S.

- Về con chung: Chị N được tiếp tục trực tiếp nuôi con chung là cháu Lê Khả H, sinh ngày 02/4/2013. Ghi nhận chị N tự nguyện không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Nguyên đơn chị Thái Thị Hồng N có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Bến Tre giải quyết về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bị đơn anh Lê Văn S. Anh S cư trú tại ấp B, xã L, huyện G, tỉnh Bến Tre. Anh S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh S.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Thái Thị Hồng N và anh Lê Văn S tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 08 tháng 6 năm 2016 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

Tuy nhiên, theo chị N trình bày, trong quá trình chung sống, chị và anh S phát sinh mâu thuẫn nhưng không giải quyết được. Từ tháng 02/2019 cho đến nay, chị và anh S không chung sống với nhau. Hiện, chị không còn tình cảm với anh S nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S.

Với yêu cầu xin ly hôn của chị N, Tòa án đã tiến hành thông báo cho anh S tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mục đích hòa giải cho chị N và anh S đoàn tụ nhưng anh S vắng mặt, không có ý kiến, để cho chị N tự giải quyết. Đồng thời tại biên bản xác minh ngày 19/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm thể hiện giữa chị N và anh S đã xảy ra mâu thuẫn.

Xét thấy, giữa chị N và anh S không còn tình nghĩa vợ chồng vì không thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình. Bên cạnh đó, anh chị đã không chung sống với nhau từ tháng 02/2019 cho đến nay. Từ đó có đủ cơ sở khẳng định hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị N để giải quyết cho chị N được ly hôn với anh S.

[3] Về con chung: Theo hồ sơ vụ án và lời khai của chị N, chị N và anh S có 01 người con chung là cháu Lê Khả H, sinh ngày 02/4/2013. Hiện cháu H đang sống với chị N. Chị N yêu cầu được trực tiếp nuôi con. Về phía anh S thì không có ý kiến phản đối với lời trình bày cũng như yêu cầu của chị Nhi.

Xét thấy, cháu H là con chung của chị N và anh S, cháu H đang được chị N nuôi dưỡng. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, chấp nhận yêu cầu của chị N, giao cháu H cho chị N tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng.

Về việc cấp dưỡng cho con: Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 và khoản 1 Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình thì chị N có quyền yêu cầu anh S thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu H. Hội đồng xét xử có giải thích việc cấp dưỡng cho con là quyền và lợi ích của cháu H. Tuy nhiên, chị N không yêu cầu anh S cấp dưỡng cho con. Đây là sự tự nguyện của chị N nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N trình bày chị và anh S không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với anh S thì vắng mặt, không có ý kiến. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy lời đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm là phù hợp nên được chấp nhận.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Thái Thị Hồng N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 147, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Thái Thị Hồng N. Chị Thái Thị Hồng N được ly hôn với anh Lê Văn S.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Khả H, sinh ngày 02/4/2013 cho chị Thái Thị Hồng N tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận chị Thái Thị Hồng N không yêu cầu anh Lê Văn S cấp dưỡng cho con.

Anh S có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với chị N.

Anh S có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp anh S lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh S.

Chị N có quyền yêu cầu anh S cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.

Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị Thái Thị Hồng N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002229 ngày 24 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 92/2019/HNGĐ-ST ngày 13/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:92/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về