TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 912/2019/HS-PT NGÀY 23/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 23 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 713/2019/TLPT-HS ngày 14 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo Phạm Văn S và Phạm Văn Q do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 40/2019/HS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa, Hà Nội.
* Các bị cáo có kháng cáo:
1. PHẠM VĂN S, sinh ngày 22/10/19XX tại H N; ĐKHKTT và nơi cư trú: thôn Y, xã T, huyện Ư, TP Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn C và bà Nguyễn Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 29/01/2018, Công an xã Trường Thịnh, huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” (Đã chấp hành xong). Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/4/2019 đến ngày 03/5/2019, hiện tại ngoại có mặt.
2. PHẠM VĂN Q, sinh ngày 17/01/19XX tại H N; ĐKHKTT và nơi cư trú: thôn Y, xã T, huyện Ư, TP Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T (Đã chết) và bà Nguyễn Thị D; có vợ Trần Thị Phương T và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:
- Bản án số 16/2009/HSST ngày 20/3/2009, TAND huyện Thanh Oai, TP Hà Nội xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (đã xóa án tích);
- Bản án số 258/2014/HSST ngày 23/12/2014, TAND quận Hà Đông, TP Hà Nội xử phạt 17 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” (đã xóa án tích).
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/4/2019 đến ngày 03/5/2019, hiện tại ngoại có mặt.
Ngoài ra còn có bị cáo Mai Danh T không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị:
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 19/4/2019, Phạm Văn S đến nhà Mai Danh T chơi thì T nói với S “Mai anh em mình vào nhà ông M xem có gì thì lấy trộm”, S đồng ý. Đến khoảng 17 giờ ngày 20/4/2019, S đến nhà T để đi trộm cắp thì T xuống bếp lấy 02 chiếc cơ lê và 01 chiếc kìm đi sang nhà ông M ở cùng thôn, do trời tối T bật đèn điện thoại lên soi vào trong nhà thì không thấy tài sản gì. T nói với S “Đi sang nhà bên cạnh xem có gì thì lấy trộm” rồi cả hai trèo tường từ nhà ông M sang nhà ông Mai Khắc D (bên cạnh), T bật đèn điện thoại soi vào trong nhà, cả hai nhìn vào thấy 01 chiếc ti vi đang để ở kệ tủ, do cửa khóa nên T dùng kìm bấm đứt khuyên cửa, S dùng tay giữ cửa. Phá được cửa, S và T vào trong nhà ông D; S soi đèn cho T rút dây và bê chiếc ti vi màn hình phẳng 42inh, nhãn hiệu LG ra ngoài. S trèo tường ra ngoài đường trước, T đưa ti vi qua tường cho S rồi trèo ra. S mang chiếc ti vi trộm cắp được giấu ở bụi cây cạnh tường nhà ông M rồi cả hai đi về nhà T. Sau đó, S gọi điện cho Phạm Văn Q hẹn gặp Q ở Bặt Ngõ, Liên Bạt. Khoảng 30 phút sau, Q về đến nơi. Cả ba ngồi ăn tại quán của anh Trần Hữu T ở Bặt Ngõ, Liên Bạt, Ứng Hòa. Q hỏi S “Chúng mày gọi tao về có việc gì đấy”, S trả lời “tý nữa cháu bảo”. T nói với Q và nhờ Q mượn chiếc xe mô tô của anh T để cho S về lấy điện thoại. Q hỏi mượn Thắng chiếc xe mô tô BKS: 29L1 - 420.XX, T đồng ý. T điều khiển xe mô tô chở S về nhà lấy 01 chiếc vỏ chăn màu đỏ ra chỗ dấu chiếc ti vi, S lấy vỏ chăn quấn vào ti vi. T chở S cùng chiếc ti vi đến đình Ba thôn ở Liên Bạt. S mang chiếc ti vi dấu vào bụi cây ở ven đường rồi đi xe máy về trả xe mô tô cho T. Sau đó, S nói với Q “Chú cho chúng cháu xuống đình Bặt”. Q điều khiển xe ô tô chở S và T xuống Đình Bặt, S nói “Để cháu xuống đi vệ sinh”, S xuống xe và bê chiếc ti vi trộm cắp được để lên ghế sau xe ô tô của Q. Thấy ti vi, Q hỏi “Ti vi ở đâu đấy”, S nói “Ti vi của người nhà cháu, chú xem lấy được không, hay có ai lấy thì bán hộ cháu”. Q hỏi “Tao hỏi thật mày lấy trộm ti vi này của ai”, S nói “Cháu lấy trộm ti vi này của người nhà cháu, gần nhà cháu”. Q lại hỏi “Cụ thể mày lấy trộm ti vi này của ai” S không nói gì. Sau đó, Q liên hệ và đem ti vi đến bán cho anh Vũ Văn M ở T, T, Q không nói gì đến ti vi do trộm cắp mà có nên anh M không biết, Q để ti vi ở đó nhưng do ti vi cũ nên anh M không mua, đến ngày 22/4/2019 Q lấy lại ti vi đem đến nhà ông Nguyễn Duy N ở T S, T T mua chó. Khi đến nhà ông N, Q nói “Em có cái ti vi, thằng em nó nhờ bán hộ em bán cho người ta rồi nhưng người ta không lấy”. Anh N nói “Đâu, thế thì để cho tao”. Sau khi kiểm tra, anh N trả Q 2.000.000 đồng, Q nhận tiền rồi đi về. Trên đường về, Q vứt chiếc vỏ chăn màu đỏ ở dệ ao trước cửa nhà ông N, số tiền 2.000.000 đồng do bán ti vi mà có, Q đã tiêu xài cá nhân hết. Ngày 22/4/2019, do không có tiền tiêu xài, Phạm Văn S đã bán chiếc điện thoại Viettel của mình cho một người đi đường không quen biết với giá 200.000 đồng.
Ngày 23/4/2019, ông Mai Khắc D trình báo vụ việc bị mất chiếc ti vi LG, 42 inh tại Công an huyện Ứng Hòa. Cơ quan CSĐT - Công an huyện Ứng Hòa đã điều tra phát hiện và ra Lệnh giữ người và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Phạm Văn Q, Phạm Văn S và Mai Danh T. Ông Mai Văn N tự nguyện giao nộp chiếc ti vi trên để phục vụ cho việc điều tra vụ án.
Vật chứng thu giữ:
- 01 Chiếc ti vi màn hình phẳng, nhãn hiệu LG, model 42LN5400-TA số serial: 312VNPA06688 màu đen, loại 42 in đã qua sử dụng;
- 01 xe ô tô BKS: 28C - 045.XX nhãn hiệu Chevrolet-Colorado màu đỏ; số khung: 8FL0JH613694; số máy: G6G171811126 đã qua sử dụng;
- 01 chiếc kìm bấm dài 16cm có phần tay cầm màu đỏ bằng nhựa, phần đầu kìm loại màu nâu đã cũ;
- 01 chiếc cờ lê bằng kim loại 1 đầu số 8, một đầu số 12, mỗi đầu đều có hai cạnh nhọn, dài 12,5cm đã cũ;
- 01 cờ lê bằng kim loại hai đầu đều có số 17, một đầu tròn, một đầu hai cạnh dài 21cm, đã cũ;
Tại kết luận định giá tài sản số 31 ngày 26/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Ứng Hoà kết luận: Chiếc ti vi màn hình phẳng, nhãn hiệu LG, model 42LN5400-TA số serial: 312VNPA06688 màu đen, loại 42 in đã qua sử dụng có giá trị 3.700.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 40/2019/HS-ST ngày 16 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa đã Q định: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn S phạm tội “Trộm cắp tài sản” và Phạm Văn Q phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Văn S 06 (Sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 24/4/2019 đến ngày 03/5/2019.
- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm p, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Văn Q 09 (Chín) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/4/2019 đến ngày 03/5/2019.
- Ngoài ra bản án còn xử phạt bị cáo Mai Danh T 12 tháng tù, tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/8/2019 bị cáo Phạm Văn S có đơn kháng cáo xin giảm được cải tạo tại địa phương.
Ngày 20/8/2019 bị cáo Phạm Văn Q có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa các bị cáo Phạm Văn S, Phạm Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã quy kết. Các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo với lý do bị cáo S bị bệnh tật ốm yếu; bị cáo Q bố mới mất, ba con còn nhỏ, vợ ốm yếu, bị cáo là lao động chính trong gia đình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, vai trò của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, xem xét kháng cáo của các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự, xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo Phạm Văn S, Phạm Văn Q tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của bị cáo Mai Danh T, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận định giá tài sản, tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Tối ngày 20/4/2019, Phạm Văn S và Mai Danh T đã thực hiện hành vi lén lút đột nhập vào nhà ông Mai Khắc D trộm cắp 01 chiếc ti vi màn hình phẳng nhãn hiệu LG, model 42LN5400-TA có giá trị là 3.700.000 đồng nhằm mục đích bán lấy tiền ăn tiêu; Phạm Văn Q mặc dù biết tài sản do Phạm Văn S và Mai Danh T trộm cắp được mà có nhưng vẫn đem ti vi trên bán cho ông Mai Văn N được 2.000.000 đồng để ăn tiêu. Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Văn S đã bị Toà án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, bị cáo Phạm Văn Q bị xét xử về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Văn S, Phạm Văn Q thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án; vai trò của các bị cáo; thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo S phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hiện bị tai nạn và sức khỏe không tốt vẫn phải điều trị; bị cáo Q đã bồi thường để trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhằm khắc phục hậu quả; đánh giá nhân thân các bị cáo xấu đã Q định mức hình phạt 06 tháng tù đối với bị cáo Phạm Văn S về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc các bị cáo phải cách ly khỏi xã hội là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Do vậy kháng cáo của bị cáo Phạm Văn S xin được cải tạo tại địa phương là không có cơ sở chấp nhận.
Bị cáo Phạm Văn Q có nhân thân rất xấu, đã được cải tạo giáo dục nhiều lần song không chịu lấy đó làm bài học tu Dỡng cho bản thân mà do hám lợi lại tiếp tục phạm tội, do vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo nên kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Phạm Văn Q là không có cơ sở chấp nhận. Tuy nhiên cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Phạm Văn Q 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” cao hơn mức hình phạt đối với bị cáo Phạm Văn S thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” là không phù hợp, quá nghiêm khắc. Do vậy có căn cứ để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo sớm hòa nhập với xã hội thành công dân tốt.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
[4] Bị cáo Phạm Văn S kháng cáo không được cấp phúc thẩm chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Phạm Văn Q kháng cáo cấp phúc thẩm sửa phần hình phạt nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn S; chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Phạm Văn Q và sửa một phần bản án sơ thẩm:
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn S 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/4/2019 đến ngày 03/5/2019) về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Văn Q 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 23/4/2019 đến ngày 03/5/2019) về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
2. Về án phí:
- Bị cáo Phạm Văn S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
- Bị cáo Phạm Văn Q không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Mai Danh T, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 912/2019/HS-PT ngày 23/11/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 912/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về