Bản án 91/2020/HS-ST ngày 01/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 91/2020/HS-ST NGÀY 01/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 113/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Anh T, sinh năm 1981 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Không đăng ký; chỗ ở: phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1960 và bà: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1961; vợ, con: không có; tiền án: Bản án số 227/2014/HSST ngày 11/12/2014 Tòa án nhân dân tp. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/01/2017, chưa chấp hành xong nghĩa vụ dân sự; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: 29/01/2020. Có mặt.

- Bị hại:

1. Anh Lương Gia T1, sinh năm 2001, nơi cư trú: Phường C, quận D, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

2. Anh Phạm Quốc P, sinh năm 1999, nơi cư trú: phường E, quận F, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

 Khoảng 16 giờ ngày 29/01/2020, Nguyễn Anh T cùng đối tượng tên T2 (không rõ lai lịch) điều khiển xe gắn máy hiệu Nuovo (không rõ biển số) lưu thông trên đường X, Phường C, quận D. Khi đến nhà số 958/4 đường X, Phường C, quận D, T phát hiện xe gắn máy hiệu Honda Airblade, biển số 59U1-654.82 của anh Lương Gia T1 để trước nhà, trên xe có cắm sẵn chìa khóa. T nảy sinh ý định chiếm đoạt nên kêu T2 dừng xe, còn T đi bộ đến xe gắn máy trên, mở khóa xe rồi tăng ga định chạy thoát. Tuy nhiên, do xe bị khóa bánh xe nên T té ngã, bị người dân bắt giữ giao công an phường giải quyết.

Tại cơ quan điều tra, T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên. Ngoài ra, T còn khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 30/12/2019, do quan sát từ trước, Tuấn đã lấy trộm chìa khóa phòng của anh Phạm Quốc P (người thuê trọ tại nhà trọ của gia đình T, địa chỉ số 11 đường Y, phường A, quận B) thường để ở dưới thảm trước cửa phòng. Sau đó, T mở cửa phòng, lấy trộm 01 máy tính xách tay hiệu Dell Inprision 5469 Core I5 màu bạc và 01 chìa khóa xe gắn máy. T tiếp tục đi xuống tầng trệt, dùng chìa khóa xe vừa lấy trộm điều khiển xe gắn máy hiệu Yamaha Jupiter biển số 49G1-428.41 tẩu thoát. T nhờ T2 (đối tượng không rõ lai lịch nêu trên) bán số tài sản vừa lấy trộm của anh P được 8.000.000 đồng và tiêu xài hết. Ngày 26/5/2020, Công an quận Tân Phú đã chuyển hồ sơ vụ án trên cho Công an quận Tân Bình theo Quyết định chuyển vụ án hình sự số 02/QĐ-VKSTP ngày 14/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình.

Đối với đối tượng T2, chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa làm việc được nên chưa có căn cứ điều tra làm rõ để xử lý.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblade, biển số 59U1-654.82, trị giá 25.000.000 đồng là tài sản T chiếm đoạt của anh Lương Gia T1, đã thu hồi trả lại cho anh T1, anh T1 đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm.

- 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Jupiter biển số 49G1-428.41 trị giá 16.500.000 đồng và 01 máy tính xách tay hiệu Dell Inprision 5469 Core I5 màu bạc trị giá 8.000.000 đồng là tài sản T chiếm đoạt của anh Phạm Quốc P, không thu hồi được. Anh P yêu cầu T bồi thường số tiền 24.500.000 đồng.

- 01 USB ghi hình ảnh vụ việc.

- 01 kềm cộng lực, 04 thanh đoản, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, 01 áo khoác dài tay màu đen hiệu Nike, 01 mũ lưỡi trai hiệu Puma, 01 nón bảo hiểm màu trắng sọc đỏ thu giữ của T.

Tại bản cáo trạng số 88/CT-VKS ngày 26 tháng 6 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 03 năm tù.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

 - Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Anh T, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Anh T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe gắn máy hiệu hiệu Honda Airblade, biển số 59U1-654.82 trị giá 25.000.000 đồng của anh Lương Gia T1, 01 xe gắn máy hiệu Yamaha Jupiter biển số 49G1-428.41 trị giá 16.500.000 đồng và 01 máy tính xách tay hiệu Dell Inprision 5469 Core I5 màu bạc trị giá 8.000.000 đồng của anh Phạm Quốc P, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Trong vụ án này, bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi phạm tội với mỗi lần đủ yếu tố cấu thành tội phạm, thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên”; bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo được xác định là “Tái phạm”, là những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù thật nghiêm nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi một phần và trả lại cho bị hại, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại anh Lương Gia T1 đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị hại anh Phạm Quốc P yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 24.500.000 đồng là trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt không thu hồi được. Bị cáo đồng ý. Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo, buộc bị cáo bồi thường cho anh P số tiền 24.500.000 đồng.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 01 USB ghi hình ảnh vụ việc là chứng cứ của vụ án và có thể lưu giữ trong hồ sơ vụ án nên cần lưu vào hồ sơ vụ án.

- 01 kềm cộng lực, 04 thanh đoản, 01 điện thoại di động, 01 áo khoác dài tay màu đen hiệu Nike, 01 mũ lưỡi trai hiệu Puma, 01 nón bảo hiểm màu trắng sọc đỏ thu giữ của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy đây là những vật không có giá trị và bị cáo không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh thu giữ của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52 và điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Căn cứ khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự:

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo : Nguyễn Anh T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/01/2020.

[2] Buộc bị cáo bồi thường cho anh Phạm Quốc P số tiền 24.500.000 (hai mươi bốn triệu năm trăm ngàn) đồng.

[3] Lưu vào hồ sơ vụ án 01 USB ghi hình ảnh vụ việc (01 gói niêm phong bên ngoài có hình dấu Công an Phường 8, quận Tân Bình và chữ ký Nguyễn Anh T).

Tịch thu và tiêu hủy: 01 cần xiết lực bằng kim loại có cán bằng nhựa màu cam đen dài 15cm hiệu “Kapusi CR-V Japan”, 01 thanh kim loại dài 4cm hiệu “GS”, 01 thanh kim loại dài 5,8cm, 01 thanh kim loại dài 6cm, 01 thanh kim loại dài 7cm, 01 áo khoác dài tay màu đen hiệu “Nike”, 01 mũ lưỡi trai màu đen hiệu “Puma” và 01 nón bảo hiểm màu trắng sọc đỏ.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, số imei 1:

352892104861830, số imei 2: 352892105861839 (Nhưng tạm giữ cho đến khi bị cáo thi hành xong trách nhiệm dân sự).

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 21/PNK ngày 04/02/2020 của Công an quận Tân Bình).

[4] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.225.000 (một triệu hai trăm hai mươi lăm ngàn) đồng.

Kể từ ngày anh Phạm Quốc P có đơn xin thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản như đã nêu trên, bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi chậm thi hành án tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định tại Điều 357 và 468 Bộ luật dân sự.

[5] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sư có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2015).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2020/HS-ST ngày 01/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:91/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về