Bản án 91/2019/HS-ST ngày 30/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 91/2019/HS-ST NGÀY 30/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ L số 83/2019/TLST-HS, ngày 20 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh ngày 15/01/1963; Nơi cư trú: Thôn 2, xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 5/10; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn V (đã chết); con bà Lê Thị L; vợ là Phạm Thị H (đã ly hôn); con: Có 01 con, sinh năm 1994;

* Tiền án, tiền sự: Không;

* Nhân thân:

- Ngày 29/12/1997 bị Tòa nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân (Bản án số 42/STHS);

- Ngày 05/10/1999 bị Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang (nay thành phố Tuyên Quang), xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân (Bản án số 46);

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2018, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Dương Ngọc A, sinh năm 1977; nơi cư trú: Tổ 1, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Lê Cao L, sinh năm 1983; nơi cư trú: Tổ 3, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt,

2. Anh Phạm Hồng V, sinh năm 1975; nơi cư trú: Thôn H, xã A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

3. Anh Nguyễn Quang L, sinh năm 1984; nơi cư trú: Tổ 1, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

4. Anh Nông Văn L, sinh năm 1986; nơi cư trú: Thôn C, xã N, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 13/12/2018, Nguyễn Văn T là người nghiện ma túy điều khiển xe mô tô từ nhà đi đến khu vực cầu Đoan Hùng, thuộc huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, mục đích tìm mua Heroine về để sử dụng và bán cho những người nghiện ma túy khác để thu lợi. T gặp và mua được 01 gói Heroine gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng ngà, với số tiền 800.000 đồng của một người đàn ông không biết tên tuổi, địa chỉ. Sau đó T điều khiển xe mô tô về nhà lấy một ít Heroine ra sử dụng bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể, số Heroine còn lại T chia ra thành nhiều gói nhỏ, được gói bằng giấy bạc màu vàng cất giấu và đã 07 lần bán cho những người nghiện ma túy khác cụ thể, như sau:

Lần 1: Khoảng 08 giờ ngày 14/12/2018, Lê Cao L điều khiển xe mô tô đến nhà gặp T, L hỏi “có hàng không để cho em một cái” ý hỏi mua Heroine, T nói “có” L đưa cho T 200.000 đồng. T cầm tiền, bảo L đứng đợi, T đi ra vườn lấy 01 gói Heroine được bọc bằng giấy bạc màu vàng vào đưa cho L, trên đường về đến khu vực vắng người L đã sử dụng hết.

Lần 2: Khoảng 11 giờ ngày 14/12/2018, Phạm Hồng V điều khiển xe mô tô đến rủ Lê Cao L đi mua Heroine về cùng nhau sử dụng, L đồng ý, V điều khiển xe mô tô chở L đến nhà gặp T hỏi mua Heroine. V nói với T (bán cho con thuốc) ý hỏi mua Heroine, V đưa cho T 200.000 đồng, T cầm tiền đi vào phòng ngủ, sau đó đi ra đưa cho V 01 gói Heroine được bọc bên ngoài bằng giấy bạc màu vàng. V cầm gói Heroine cùng L trên đường về đến khu vực vắng người đã sử dụng hết.

Lần 3: Khoảng 15 giờ ngày 14/12/2018, Lê Cao L điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Quang L đến nhà gặp T, L hỏi mua Heroine, T đồng ý, L đưa cho T 200.000 đồng, T cầm tiền và đưa cho L 01 gói Heroine được bọc bên ngoài bằng giấy bạc màu vàng. L cầm gói Heroine cùng L trên đường về đến khu vực vắng người đã sử dụng hết.

Lần 4: Khoảng 17 giờ ngày 14/12/2018, Lê Cao L điều khiển xe mô tô đến nhà gặp T hỏi mua Heroine, T đồng ý, L đưa cho T 200.000 đồng, T cầm tiền và đưa cho L 01 gói Heroine, L cầm gói Heroine trên đường về đến khu vực vắng người sử dụng hết.

Lần 5: Khoảng 18 giờ ngày 14/12/2018, Lê Cao L điều khiển xe mô tô đến nhà gặp T hỏi mua Heroine, T đồng ý, L đưa cho T 200.000 đồng, T cầm tiền và đưa cho L 01 gói Heroine, L cầm gói Heroine trên đường về đến khu vực vắng người sử dụng hết.

Lần 6: Khoảng 11 giờ ngày 15/12/2018, Lê Cao L điều khiển xe mô tô đến nhà gặp T hỏi mua Heroine, T đồng ý, L đưa cho T 200.000 đồng, T cầm tiền và đưa cho L 01 gói Heroine, L cầm gói Heroine trên đường về đến khu vực vắng người sử dụng hết.

Lần 7: Khoảng 16 giờ ngày 15/12/2018, Lê Cao L lái xe ôm chở khách là Nông Văn L từ Bến xe khách Tuyên Quang về xã Nhữ Hán, huyện Yên Sơn, trên đường đi L đón và chở thêm Dương Ngọc A đến nhà T, L bảo L đứng ở ngoài đợi, còn L và A vào nhà T. A hỏi T “có ma túy không bán lại cho ba cái” ý hỏi mua 03 gói Heroine, T đồng ý bán cho A 03 gói Heroine với số tiền 600.000 đồng, T đứng dậy đi lấy Heroine để bán cho A, thì bị Tổ công tác Công an thành phố Tuyên Quang, phát hiện bắt quả tang hồi 16 giờ 45 ngày 15/12/2018. Quá trình bắt giữ T tự giác giao nộp 05 gói Heroine được bọc ngoài bằng giấy bạc một mặt màu vàng, một mặt màu trắng (đã niêm phong ký hiệu M1); tạm giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone vỏ màu trắng đã qua sử dụng; tạm giữ của Dương Ngọc A 600.000 đồng là số tiền chuẩn bị mua Heroine của T.

Hồi 17 giờ 50 phút ngày 15/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Tuyên Quang, khám xét khẩn cấp người và nơi ở đối với Nguyễn Văn T, phát hiện thu giữ trong tủ gỗ trong buồng ngủ 01 gói nhỏ bên ngoài gói bằng giấy bạc màu vàng bên trong là hai lớp giấy loại giấy lịch, bên trong chứa chất bột màu trắng ngà được cất giấu trong 01 chiếc găng tay len màu trắng (đã niêm phong ký hiệu M2).

Tại Kết luận giám định số 74/GĐKTHS ngày 18/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định trong 02 gói phong bì ký hiệu M1, M2 thu giữ của Nguyễn Văn T là chất ma túy, loại Heroine, số thứ tự 09 thuộc danh mục IA, Nghị định 73/2018 ngày 15/5/2018; tổng khối lượng 0,531g (không phẩy năm ba một gam).

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Nguyễn Văn T, Lê Cao L, Phạm Hồng V, Nguyễn Quang L, kết quả đều (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể.

Tại Cáo trạng số 83/CT-VKSTP, ngày 20 tháng 6 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố Nguyễn Văn T, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T theo tội danh, điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; tịch thu, truy thu sung quỹ nhà nước khoản tiền mua bán ma tuý; xem xét xử lý vật chứng; buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận 07 lần bán ma tuý, nội dung khai báo phù hợp với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra và nội dung bản cáo trạng, không có T tiết mới. Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận giám định số của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh tụng, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuyên Quang, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình sự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và tại phiên tòa Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiền hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo T tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của những người mua ma tuý. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong hai ngày 14 và 15/12/2018, Nguyễn Văn T đã 07 lần bán trái phép chất ma túy Heroine tại nhà ở của mình, thuộc thôn An Hòa 4 (nay là thôn 2), xã An Tường, thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên, cụ thể như sau:

Lần 1: Khoảng 08 giờ ngày 14/12/2018, Nguyễn Văn T đã có hành vi bán trái phép 01 gói Heroine với số tiền 200.000 đồng cho Lê Cao L;

Lần 2: Khoảng 11 giờ ngày 14/12/2018, Nguyễn Văn T đã có hành vi bán trái phép 01 gói Heroine với số tiền 200.000 đồng cho Lê Cao L và Phạm Hồng V;

Lần 3: Khoảng 15 giờ ngày 14/12/2018, Nguyễn Văn T đã có hành vi bán trái phép 01 gói Heroine với số tiền 200.000 đồng cho Lê Cao L và Nguyễn Quang L;

Lần 4: Khoảng 17 giờ ngày 14/12/2018, Nguyễn Văn T đã có hành vi bán trái phép 01 gói Heroine với số tiền 200.000 đồng cho Lê Cao L;

Lần 5: Khoảng 18 giờ ngày 14/12/2018, Nguyễn Văn T đã có hành vi bán trái phép 01 gói Heroine với số tiền 200.000 đồng cho Lê Cao L;

Lần 6: Khoảng 08 giờ ngày 15/12/2018, Nguyễn Văn T đã có hành vi bán trái phép 01 gói Heroine với số tiền 200.000 đồng cho Lê Cao L;

Lần 7: Khoảng 16 giờ ngày 15/12/2018, Nguyễn Văn T đã có hành vi bán trái phép 03 gói Heroine với số tiền 600.000 đồng cho Lê Cao L và Dương Ngọc A;

Do vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hồi cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản L của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân thường gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác, bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 29/12/1997 bị Tòa nhân dân huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân; ngày 05/10/1999 bị Tòa án nhân dân thị xã Tuyên Quang (nay thành phố Tuyên Quang), xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân. Vì vậy cần phải có mức hình phạt thật nghiêm tương xướng với hành vi phạm tội của bị cáo tại cơ sở giam giữ một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục đồng thời góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, khối lượng heroin mà bị cáo mua bán cũng như nhân thân, các tình tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, có căn cứ.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có tài sản gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án và biện pháp tư pháp: Đối với khối lượng là Heroine đã thu giữ Nguyễn Văn T, là vật chứng của vụ án, thuộc loại nhà nước cấm lưu hành sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone tạm giữ của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo; đối với số tiền bị cáo bán ma tuý được 1.200.000 đồng, đã chi tiêu hết, là tiền do phạm tội mà có, cần truy thu sung quỹ nhà nước; đối với số tiền 600.000 đồng tạm giữ của Dương Ngọc A, đây là tiền A mang đến mua ma tuý của bị cáo T nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[7] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T, Lê Cao L và Phạm Hồng V, Công an thành phố Tuyên Quang đã xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 04, 05, 06 ngày 09/01/2019, phạt tiền mỗi người 750.000 đồng. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Dương Ngọc A, Ủy ban nhân dân phường Tân Quang đã ra Quyết định số 09 ngày 07/01/2019, áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, thời gian 03 tháng, kể từ ngày 07/01/2019.

Đối với hành vi tàng trữ trái phép 0,040 gam Heroine ngày 18/12/2018 của Nguyễn Quang L (nhân thân không có tiền án, tiền sự), không cấu thành tội phạm và hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 18/12/2018 của Nguyễn Quang L, Công an phường Hưng Thành, thành phố Tuyên Quang, đã xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 02 ngày 16/01/2019, phạt tiền 1.750.000 đồng.

Đối với người đàn ông, theo T khai là người đã bán Heroine cho T vào ngày 13/12/2018, tại khu vực cầu Đoan Hùng, thuộc huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ, nên không có căn cứ để điều tra xử L.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo bản án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 07 (Bảy) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 15/12/2018.

- Về xử L vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu, tiêu hủy 01(Một) bì giấy dán kín còn nguyên vẹn, mặt trước ghi “Tang vật vụ Nguyễn Văn T giám định ngày 15/12/2018”, mặt sau trên các mép dán có chữ ký của Nguyễn Văn T, thành phần tham gia niêm phong và 05 (Năm) hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có Heroine.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xphone vỏ màu trắng bạc, số imel 1: 358735064154064; số imel 2: 358735064154072, điện thoại cũ đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng máy.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 26/6/2019.

Truy thu sung quỹ Nhà nước số tiền do bị cáo phạm tội mà có là 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng).

Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền Dương Ngọc A sử dụng mua ma tuý là 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng). Số tiền này Công an thành phố Tuyên Quang đã chuyển vào tài khoản số 3949 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang, tại Phòng giao dịch – KBNN Tuyên Quang, theo giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước ngày 25/12/2018.

- Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bán án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2019/HS-ST ngày 30/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:91/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về