Bản án 91/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 91/2019/HS-ST NGÀY 16/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 07 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 98/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Thị M, tên gọi khác: Không; sinh năm 1961, tại Điện Biên; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Đội 18A, xã Th, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn Â, sinh năm 1920 (đã chết) và con bà Lò Thị H, sinh năm 1920; có chồng: Lường Văn Th, sinh năm 1959 và 02 con, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1991; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/03/2019, tạm giam từ ngày 22/03/2019 đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Nguyễn Xuân H, tên gọi khác: Không; sinh năm 1963, tại Thái Bình; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 03, xã P, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Xuân H1, sinh năm 1924 và con bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1923 (đã chết); có vợ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1972 và 02 con, con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/03/2019, tạm giam từ ngày 22/03/2019 đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Văn Tr, sinh năm 1980; Địa chỉ: Thôn 03, xã P, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

(Người có nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 18/03/2019, Lò Thị M từ nhà ở đội 18A, xã Th, huyện Điện Biên ra khu vực bờ mương thuộc đội 18A, xã Th với mục đích mua ma túy về bán lẻ kiếm lời. Đến nơi, M gặp và mua được 01 gói heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng với giá 600.000 đồng của một người đàn ông dân tộc kinh khoảng 28 tuổi (không biết tên và địa chỉ). Sau đó, M mang gói heroine về nhà cất giấu ở trên mặt sàn nhà dưới đầu giường ngủ của M. Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, khi M đang ở nhà thì Nguyễn Xuân H đến hỏi M mua 600.000đ đồng heroine. M đồng ý, nhận 600.000 đồng cất vào túi treo ở cột nhà rồi lấy gói heroine ra dùng dao lam cắt một ít heroine gói lại bằng nilon màu trắng đưa cho H. Số heroine còn lại, M gói lại như cũ rồi tiếp tục cất giấu vào chỗ cũ. Số tiền bán heroine cho H mà có, M đã chi tiêu hết.

Sau khi mua được heroine của M, Nguyễn Xuân H cất vào túi quần bên phải đang mặc rồi đi về nhà ở thôn 3, xã P, huyện Điện Biên và đã lấy ra sử dụng 02 lần bằng hình thức hít. Khoảng 08 giờ ngày 19/3/2019, H chia số Heroine còn lại thành 05 gói, trong đó: 04 gói Heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng, miệng các gói được hơ lửa hàn kín và 01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng giấy trắng. H cất toàn bộ 05 gói Heroine vừa chia xong vào túi quần bên phải đang mặc. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, Phạm Văn Tr (sinh năm 1980, tạm trú tại thôn 3, xã P, huyện Điện Biên) đến nhà H hỏi mua Heroine và đưa cho H 50.000 đồng, H đồng ý nhận tiền cất vào túi quần phía sau đang mặc rồi lấy từ túi quần bên phải đang mặc 01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng, miệng hơ lửa hàn kín đưa cho Tr. Mua bán xong, Tr ra khỏi nhà H và sử dụng hết. Hồi 15 giờ cùng ngày, khi Nguyễn Xuân H đang ngồi ở bàn uống nước trong nhà H thì bị tổ công tác Công an huyện Điện Biên phối hợp với Công an xã P phát hiện bắt quả tang thu giữ ở túi quần bên phải H đang mặc 04 gói Heroine có tổng khối lượng 0,87 (không phẩy tám mươi bảy) gam và 50.000 đồng là tiền H bán heroine cho Tr mà có.

Căn cứ lời khai Nguyễn Xuân H. Hồi 17 giờ 10 phút ngày 19/3/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Điện Biên khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lò Thị M đã phát hiện thu giữ trên mặt sàn dưới đầu giường ngủ của M 01 gói Heroine khối lượng 3,58 (ba phẩy năm mươi tám) gam.

Tại phiên tòa các bị cáo Lò Thị M, Nguyễn Xuân H đã khai nhận lại toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Mọi lời khai của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với nội dung vụ án và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra....

Kết luận giám định số 362/GĐ-PC09 ngày 28/03/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận mẫu giám định: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Nguyễn Xuân H gửi giám định là ma túy: Loại heroine; Khối lượng vật chứng thu giữ của Nguyễn Xuân H là 0,87 gam; Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018; Không hoàn lại đối tượng giám định.

Kết luận giám định số 363/GĐ-PC09 ngày 28/03/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận mẫu giám định: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Thị M gửi giám định là ma túy: Loại heroine; khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Thị M là 3,58gam; Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018; Không hoàn lại đối tượng giám định.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Lò Thị M, Nguyễn Xuân H không khiếu nại về kết luận giám định.

Tại bản Cáo trạng số 97/CT-VKSĐB ngày 13/06/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo Lò Thị M và Nguyễn Xuân H về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, đề nghị xét xử bị cáo Lò Thị M về tội: Mua bán trái phép chất ma túy, mức hình phạt từ 06 (sáu) năm tù đến 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, đề nghị xét xử bị cáo Nguyễn Xuân H về tội: Mua bán trái phép chất ma túy, mức hình phạt từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù đến 03 (ba) năm tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy tổng số 4,45 gam Heroine đã trích 0,21 gam gửi giám định không hoàn mẫu sau giám định là vật chứng của vụ án. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 50.000 đồng do Nguyễn Xuân H phạm tội mà có (đã thu); Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 600.000 đồng do bị cáo M phạm tội mà có (chưa thu)

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo Lò Thị M, Nguyễn Xuân H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Tại phiên tòa bị cáo Lò Thị M, Nguyễn Xuân H nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát, không có ý kiến gì tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của hai bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi của các bị cáo được chứng minh như sau: Ngày 18/3/2019, tại nhà của mình ở đội 18A, xã Th, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, Lò Thị M đã có hành vi bán trái phép cho Nguyễn Xuân H 01 gói Heroine thu được 600.000 đồng, đồng thời cất giấu trong nhà 3,58 gam Heroine với mục đích để bán kiếm lời. Ngày 19/3/2019, Nguyễn Xuân H sau khi mua được Heroine của Lò Thị M đã sử dụng hai lần, số còn lại chia ra làm 05 gói và bán 01 gói Heroine cho Phạm Văn Tr để Tr sử dụng thu được 50.000 đồng và cất giấu trên người 0,87 gam Heroine mục đích để sử dụng và bán lẻ. Lò Thị M bán cho Nguyễn Xuân H 0,87 gam Heroine nên M phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng khối lượng chất ma túy đã thu giữ của M và H 4,45 (bốn phẩy bốn mươi lăm) gam Heroine.

Với hành vi đã nêu trên của các bị cáo đã khai tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa thì đã đủ cơ sở để kết tội các bị cáo Lò Thị M và Nguyễn Xuân H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố các bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Về tính chất, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội thấy rằng: Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Các bị cáo đã tiếp tay cho những người khác chuyên buôn bán các chất ma túy ngày càng phát triển, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng tới trật tự trị an, an toàn trong xã hội trên địa bàn huyện Điện Biên nói riêng cũng như địa bàn tỉnh Điện Biên nói chung. Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nghiêm trọng. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình gây ra. Nên các bị cáo phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lò Thị M được gia đình nuôi ăn học hết lớp 7/10 thì bỏ học ở nhà phụ giúp gia đình, đến năm 1980 sống chung như vợ chồng với Lường Văn Thanh và sinh được 02 người con, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo Nguyễn Xuân H lớn lên tại huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình được gia đình nuôi ăn học hết lớp 7/10 thì nghỉ học, năm 1983 chuyển lên tỉnh Điện Biên sinh sống, năm 1992 lập gia đình với chị Nguyễn Thị Mến có với nhau hai người con, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Các bị cáo không có tình tiết nào tăng nặng, tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo Nguyễn Xuân H còn có anh ruột là Nguyễn Văn Hợp được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng 3 nên bị cáo H được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ những phân tích nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có một hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4]. Về hành vi của các bị cáo bị truy tố và các quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng huyện Điện Biên và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng như: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì, không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng,

người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, song xét hoàn cảnh gia đình các bị cáo khó khăn, không có nghề nghiệp ổn định, bản thân bị cáo H là người nghiện ma túy. Do vậy HĐXX không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6]. Bị cáo Lò Thị M khai nguồn gốc heroine bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc kinh khoảng 28 tuổi, bị cáo không biết tên và địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ. Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xử lý.

[7]. Phạm Văn Tr là người đã mua heroine của Nguyễn Xuân H và đã sử dụng hết. Hành vi của Tr đã bị Công an huyện Điện Biên xử phạt vi phạm hành chính, Tr đã được Tòa án triệu tập tại phiên tòa, nhưng vắng mặt không có lý do, HĐXX xét thấy Tr đã có lời khai tại hồ sơ vụ án, xét thấy sự vắng mặt không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử nên HĐXX vẫn tiếp tục làm việc. Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xử lý đối với Tr.

[8]. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 0,87 gam Heroine, trích 0,09 gam gửi giám định, không hoàn lại đối tượng giám định, vật chứng còn lại 0,78 gam heroine và 3,58 gam heroine, trích 0,12 gam gửi giám định, không hoàn lại mẫu sau giám định, vật chứng còn lại 3,46 gam heroine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành; Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 50.000 đồng do bị cáo H phạm tội mà có (đã thu); Truy thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 600.000 đồng do bị cáo M phạm tội mà có (chưa thu).

[9]. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo Lò Thị M, Nguyễn Xuân H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố:

- Bị cáo Lò Thị M phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

2. Xử phạt bị cáo Lò Thị M 06 (sáu) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 19/03/2019.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 19/03/2019.

3. Vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy 0,87 gam Heroine, trích 0,09 gam gửi giám định, không hoàn lại đối tượng giám định, vật chứng còn lại 0,78 gam heroine và 3,58 gam heroine, trích 0,12 gam gửi giám định, không hoàn lại mẫu sau giám định, vật chứng còn lại 3,46 gam heroine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành;

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 50.000 đồng do bị cáo H phạm tội mà có (đã thu); Truy thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 600.000 đồng do bị cáo M phạm tội mà có (chưa thu).

(Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được cơ quan Điều tra Công an huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên theo biên bản bản giao nhận vật chứng ngày 19/6/2019).

4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo Lò Thị M, Nguyễn Xuân H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (16/7/2019) ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2019/HS-ST ngày 16/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:91/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về