Bản án 91/2019/HS-PT ngày 24/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 91/2019/HS-PT NGÀY 24/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24/9/2019, tại Toà án nhân dân tỉnh Bình Thuận, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 53/2019/TLPT-HS ngày 27 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo Lê Nguyên K do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 25/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Nguyên K, sinh ngày 28/11/1990, tại tỉnh Bình Thuận. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn PH, xã HT, huyện HTB, tỉnh Bình Thuận; chỗ ở hiện nay: xã BS, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn L và bà Lê Thị P; có vợ: Võ Thị T (ly hôn) và 01 con sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt.

Ngoài ra còn có bị cáo Nguyễn Thanh L không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Văn L là Luật sư thuộc Công ty luật TNHH MTV Bình Thuận, Đoàn Luật sư tỉnh Bình Thuận. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 01 giờ, ngày 02/11/2017 Lê Nguyên K điều khiển xe mô tô biển số 86B3-12912 chở Nguyễn Thanh L chạy trên Quốc lộ 1A hướng từ thị trấn LH đi thị trấn PRC để tìm kiếm bò trộm cắp bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. Khi đi đến địa phận thôn Hội Tâm, xã Hòa Minh thì Lợi phát hiện có 05 con bò của bà Huỳnh Thị Kim S đang cột ở mấy gốc cây dừa. Lợi đi đến tháo dây dắt 01 con bò đực (khoảng 04 năm tuổi màu đỏ nâu có bớt màu trắng, cao khoảng 1,4m, nặng khoảng 200kg) đi ra Quốc lộ 1A, L và K thay nhau dắt bộ đi về hướng thị trấn LH, đến gần cây xăng Thắng Lợi thuộc thôn Thanh Lương - xã Chí Công thì L dắt bò vào rừng keo lá tràm (cách quốc lộ 1A khoảng 10m) cột bò lại cất giấu, sau đó K điều khiển xe chở L về nhà trọ gần công ty may Tuy Phong để ngủ. Đến khoảng 06 giờ ngày 02/11/2017 K gọi điện thoại cho Nguyễn Văn H ở xã HT, huyện HTB để thuê xe chở bò, H không biết K thuê xe chở tài sản trộm cắp nên đồng ý và giao xe ô tô biển số 86C-00588 cho Khuê Chí A (là người làm thuê cho H) chạy đi chở bò.

Đến khoảng 09 giờ ngày 02/11/2017 A điều khiển xe ô tô 86C-00588 đến cây xăng Thắng Lợi, L đi đến chỗ cất giấu con bò dắt bò lên xe ô tô để A chở L và bò về thành phố PT, riêng K đi xe mô tô về sau. L liên hệ nhiều thương lái nhưng không bán được bò nên L nói A chở bò về nhà của Nguyễn Thị Kim L (chị của L) ở thị trấn ML, huyện HTB để cất giấu.

Đến khoảng 09 giờ ngày 03/11/2018 L gạ bán con bò đã trộm của bà S cho một người đàn ông tên Cu Em (không rõ lai lịch) ở huyện Hàm Thuận Nam với số tiền 16.000.000 đồng. L chia cho Khang 8.000.000 đồng, K và L mỗi người trích ra 600.000 đồng (tổng cộng 1.200.000 đồng) trả tiền thuê xe cho H.

Theo Biên bản định giá tài sản và Bản kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐĐG ngày 09/3/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tuy Phong, kết luận: 01 con bò đực nặng 200kg, 04 năm tuổi, trị giá: 20.000.000 đồng/con x 01 con = 20.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 25/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong quyết định:

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thanh L, Lê Nguyên K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; Điểm b, i, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Lê Nguyên K 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên phạt bị cáo Nguyễn Thanh L 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tổng hợp hình phạt đối với bị cáo L, tuyên bồi thường dân sự, án phí hình sự sơ thẩm, thông báo quyền kháng cáo cho những người tham gia tố tụng biết.

Ngày 08/3/2019, bị cáo Lê Nguyên K kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm, yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lê Nguyên K thừa nhận Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xin hưởng án treo do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, có con nhỏ, cha mẹ là người cao tuổi, bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, thành phần khai báo, ăn năn hối cải và đã khắc phục hậu quả.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Lê Văn L bào chữa cho bị cáo: về tội danh không có ý kiến, bị cáo phạm tội do bị rủ rê lôi kéo, mức độ phạm tội hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính đang nuôi 3 con nhỏ, vợ mới sinh, cha mẹ già mất sức lao động, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai tại Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm của bị cáo Lê Nguyên K phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với lời khai đồng phạm và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ, đã thể hiện: Do đã bàn bạc từ trước nên khoảng 01 giờ, ngày 02/11/2017, bị cáo K đã điều khiển xe máy chở Nguyễn Thanh L đi theo quốc lộ 1A với mục đích chiếm đoạt bò của người dân địa phương. Bị cáo Khang cùng với Nguyễn Thanh L đã lén lút dắt trộm 01 con bò của bà Huỳnh Thị Kim S trị giá 20.000.000 đồng rồi thay nhau dắt bò đem đi cất giấu, tìm nơi tiêu thụ. Bị cáo K và Nguyễn Thanh L đã bán bò lấy số tiền 16.000.000 đồng chia nhau tiêu xài. Với hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, bị cáo Lê Nguyên K đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo yêu cầu được hưởng án treo của bị cáo Lê Nguyên K:

Hi đồng xét xử phúc thẩm xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng như bị cáo đã tự nguyện nộp lại 5.000.000 đồng là một phần thiệt hại để bồi thường cho người bị hại, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã khai báo tương đối thành khẩn theo quy định tại các Điểm b, i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 và tuyên phạt bị cáo 06 tháng tù, là tương xứng với hành vi và mức độ phạm tội và không nặng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới do đó Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo, nên giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm b Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Nguyên K, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 16/2019/HSST ngày 25/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999; Điểm b, i, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: bị cáo Lê Nguyên K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Nguyên K 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 24/9/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 91/2019/HS-PT ngày 24/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:91/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về